Tìm hiểu về 60 long thấu địa

60 Long Thấu Địa dùng để làm gì ? Tam hợp 60 thấu địa long dùng xem lai long nhập mạch :

Tam hợp 60 thấu địa long dùng xem lai long nhập mạch. 24 sơn chia làm 12 phân vị, cứ 2 cung liền nhau làm 1 phân vị bắt đầu từ Nhâm, mỗi phân vị 30 độ chia ra 5 phần, mỗi phần 6 độ, như vậy mỗi phân vị 2 cung quản 5 long, 12 phân vị quản 60 long.
5 long tại phân vị Nhâm Tý: Giáp Tý, Bính tý, Mậu tý, Canh tý, Nhâm tý.
5 long tại phân vị Quý Sửu: Ất sửu, Đinh sửu, Kỷ sửu, Tân sửu, Quý sửu.
5 long tại phân vị Cấn Dần: Bính dần, Mậu dần, Canh dần, Nhâm dần, Giáp dần.
5 long tại phân vị Giáp Mão: Đinh mão, Kỷ mão, Tân mão, Quý mão, Ất mão.


Các phân vị còn lại cũng bố trí như trên theo quy luật: số can sẽ thuận theo thứ tự Giáp Ất Bính Đinh Mậu Kỷ Canh Tân Nhâm Quý, hết một vòng lại quay lại. Chi thì theo chi tại cung vị đó. Như vậy Giáp tý khởi đầu ở Nhâm Tý, đến Ất sửu khởi đầu ở Quý Sửu, đến Bính dần khởi đầu ở Cấn Dần… đến Càn Hợi là Ất hợi. Đây là vòng Giáp tý.
Lại đến Bính tý khởi vòng 2 Nhâm Tý, đến Đinh sửu khởi vòng 2 Quý Sửu, đến Mậu dần khởi vòng 2 Cấn Dần… đến Càn Hợi là Đinh hợi. Đây là vòng Bính tý.
Đến Mậu tý khởi vòng 3 Nhâm Tý, đến Kỷ sửu khởi vòng 3 Quý Sửu, đến Canh dần khởi vòng 3 Cấn Dần… đến Càn Hợi là Kỷ hợi. Đây là vòng Mậu tý.
Đến Canh tý khởi vòng 4 Nhâm Tý, đến Tân sửu khởi vòng 4 Quý Sửu, đến Nhâm dần khởi vòng 4 Cấn Dần… đến Càn Hợi là Tân hợi. Đây là vòng Canh tý.
Đến Nhâm tý khởi vòng cuối Nhâm Tý, đến Quý sửu khởi vòng cuối Quý Sửu, đến Giáp dần khởi vòng cuối Cấn Dần… đến Càn Hợi là Quý hợi. Đây là vòng Nhâm tý.

Vòng Giáp tý là Cô bại khí
Vòng Nhâm tý là Hư bại khí
(Vì Càn Khôn rút quẻ thể thì trên dưới chỉ còn thuần dương, thuần âm)
Vòng Mậu tý là Sát diệu không vong tuyệt khí
(Vì Khảm Ly rút quẻ thể thì trên dưới còn lại tuyệt giao)
Vòng Bính tý là Vượng khí
Vòng Canh tý là Tướng khí
(Vì Cấn Tốn Đoài Chấn rút quẻ thể thì trên dưới âm dương giao cấu)

Phân kim chỉ nên chọn Vượng và Tướng. Tránh Cô và Hư vì dù là huyệt tốt lâu ngày sẽ Tuyệt tự. Tránh sát diệu không vong vì sát khí mạnh.
Như vậy cũng như 72 long xuyên sơn, 60 long thấu địa thực chất chỉ có 24 long của vòng Bính tý và Canh tý là tốt mà thôi, 36 long còn lại là bại tuyệt cả.
Địa bàn vốn 12 chi: Tý, Sửu, Dần, Mão, Thìn, Tỵ, Ngọ, Mùi, Thân, Dậu, Tuất, Hợi. Tý Ngọ Mão Dậu là 4 ngôi chính, Dần Thân Tỵ Hợi là nơi trường sinh của ngũ hành, Thìn Tuất Sửu Mùi là nơi hưu cữu của ngũ hành. Do đó dùng 12 chi thì chi nào cũng là chân chính. Chỉ vì 12 chi có âm có dương ngay trong đó nên khó dùng, do vậy phải gia thêm thiên can Giáp, Ất, Bính, Đinh, Mậu, Kỷ, Canh, Tân, Nhâm, Quý trong đó Mậu, Kỷ tại trung cung nên không dùng; gia thêm 8 phương Càn, Khôn, Cấn, Tốn, Chấn, Đoài, Khảm, Ly trong đó Chấn, Đoài, Khảm, Ly trùng với Mão, Dậu, Tý, Ngọ nên 4 quẻ này tàng chứa ngay trong đó. Cộng lại chỉ dùng 12 chi 8 thiên can và 4 duy Càn Khôn Cấn Tốn hình thành 24 sơn.
Vì 8 thiên can và 4 duy dùng phân chia khí quẻ nên điểm giữa của Giáp Ất Bính Đinh Canh Tân Nhâm Quý Càn Khôn Cấn Tốn khí quẻ rất cứng rắn khó xuyên qua nên gọi quy giáp không vong hay là Đại không vong dùng thì đại hung.
Lằn ranh giới giữa 24 sơn vì là nơi phân âm phân dương của khí quẻ nên khí tại đây rất hỗn tạp, nên gọi Tiểu không vong, dùng thì hung.

Khôn Nhâm Ất Thìn là quẻ Cấn
Cấn Bính Tân Tuất là quẻ Đoài
Tý Mão Mùi Tỵ là quẻ Khảm
Ngọ Dậu Sửu Hợi là quẻ Ly
Giáp Quý Thân Tốn là quẻ Chấn
Dần Đinh Canh Tân là quẻ Tốn
Nói không xuất quái là Long, Hướng, Sa, Thuỷ đều thuộc về một quái như trên. Nếu không thuộc về một quái như trên thì gọi là xuất quái. Lập tinh bàn ví dụ như sơn Quý hướng Đinh kiêm lấy Sửu Mùi thì chỉ đơn thuần là kiêm hướng, không phải là kiêm quẻ xuất quái.