Những cách thay đổi vận mệnh đời người

Quan điểm của phương Đông về số phận dường như là một phạm trù đã được an bài, Mệnh và Vận đã được định đoạt sẵn, con người không thể nào vượt qua được số phận. Nhưng cũng cùng lúc đó các nhà học giả cho rằng Đức năng thắng số, khuyên con người hành thiện sẽ cải được mệnh vận, trả được nghiệp quả và có một cuộc đời an bình hơn.

Phân tích theo quan điểm của các nhà mệnh lý học: Mệnh là một phạm trù gần như cố định, vận thì vận hành tuần tự theo thời gian nhất định, mệnh và vận trên thực tế là một quy luật khách quan của sự vận động. Vậy: “Vận mệnh đã là một quy luật khách quan thì điều chỉnh bằng cách nào được?”. Nghiên cứu tứ trụ, am hiểu tứ trụ là một trong các phương pháp hữu hiệu để có thể điều chỉnh mệnh vận một con người thuận theo tự nhiên và đạt được hiệu quả tương đối rõ ràng. Bài viết này phân tích và điểm lược một số các quan điểm của các nhà mệnh lý học trong lịch sử (Lưu Bá Ôn, Thiệu Khang Tiết) cũng như đương đại (Từ Nhạc Ngô, Thiệu Vĩ Hoa, Lý Hàm Thường, Lý Cư Minh) nhằm cung cấp cho các bạn một cái nhìn rõ hơn phép cải vận đời người qua phân tích và ứng dụng quan điểm tứ trụ.



Theo các nhà nghiên cứu về lý thuyết dụng thần tứ trụ thì có thể điều chỉnh vận mệnh theo những cách sau:

1. Phép đặt tên để cải mệnh

Căn cứ ngày sinh âm dương tứ trụ bát tự của mỗi người, tổ hợp ngũ hành, tìm ra dụng thần, sau đó nắm ngũ hành dụng thần diễn biến thành một tên nào đó có thể đại biểu ngũ hành dụng thần. Việc sử dụng một tên mới là dụng thần để cải mệnh. (Có cả một lý thuyết riêng về việc này).

Dựa vào nhu cầu ngũ hành của bản thân, chọn lấy một cái tên phù hợp cũng sẽ có tác dụng tốt đối với vận mệnh. Phương pháp này có một tác dụng nhất định vì họ tên sẽ theo con người suốt cuộc đời, chẳng hạn, nếu đứa trẻ sinh ra với giờ ngày tháng năm đã định thì thầy mệnh lý xem xét hỷ dụng thần của đứa trẻ này là gì, thì họ sẽ chọn một cái tên đúng với hỷ dụng thần của đứa trẻ, ví dụ đứa trẻ cần Hỏa, thầy có thể chọn tên Tâm hoặc Tuệ (Hỏa), ..v.v…Rất nhiều người không hiểu được bí mật này nên chỉ chọn tên không xung khắc với ngũ hành nạp âm của đứa trẻ (ngũ hành nạp âm như Đại Khê Thủy, Tích lịch Hỏa,..), điều này thật đáng tiếc. Và có rất nhiều người đã dùng ngũ hành nạp âm và xem đó là ngũ hành của bản thân mình, thực chất ngũ hành nạp âm không có tác dụng nhiều cho các ứng dụng của con người trong cuộc sống thực tế.

Danh tính có vai trò rất quan trọng bởi đó là nhân tố thường xuyên tác động đến bản mệnh. Cái tên gọi mỗi ngày sẽ có tác dụng to lớn đến quá trình cải tạo vận mệnh. Tính danh ảnh hưởng 4% vận mệnh, vì vậy khoa tính danh học đã phát triển, sử dụng Âm Dương, Ngũ Hành bổ trợ cho vận mệnh. Để biết mệnh của mình thiếu hành gì phải dùng môn Bát Tự để xem xét, sau đó đặt lại tên để bổ cứu. Người ta đổi tên sao cho tổng số nét chữ họ và tên mới vào đúng những số tốt thì vận mệnh người này thay đổi tốt lên 4%.

2. Phép làm việc thiện để cải mệnh

Thường nói: "Nhất thiện giải bách tai". Có thể thông qua hành vi quyên góp tiền, cứu tế hiến máu nhân đạo, giúp đỡ người già cô quả, giúp đỡ trẻ em không nơi nương tựa bỏ học quay lại trường học tập, sửa cầu vá đường, phóng sinh … tiến hành tu sửa vận mệnh. Chỗ này là phép làm việc thiện để cải mệnh!

Theo quan điểm của đạo Phật thì luật nhân quả xuyên suốt quá khứ vị lai. Con người sinh ra đời là kết tinh của nghiệp quá khứ, tức là những gì đã tạo tác trong các kiếp trước.

Thuyết định mệnh theo ý nghĩa đó đã được các nhà nho tóm tắt trong câu: “Dục tri tiền thế nhân, kim sinh thụ giả thị. Dục tri lai thế quả, kim sinh tác giả thị” (có nghĩa là: muốn biết trong  kiếp sống trước mình đã làm những gì thì hãy nhìn xem hiện tại trong kiếp này mình đang được hưởng những gì. Muốn biết trong kiếp sau mình sẽ được hưởng những gì thì hãy nhìn xem trong kiếp sống hiện tại mình đang làm được những gì). Theo thuyết này thì con người có nhiều kiếp sống: kiếp trước, kiếp này và kiếp sau. Mỗi kiếp sống gồm có hai phần: một phần là kết quả của kiếp trước và một phần là nguyên nhân của kiếp sau.

Trong kiếp sống hiện tại của một người nào đó ta thấy có hai phần: một phần là những gì người đó đang thụ hưởng và một phần khác là những gì người đó đang làm. Phần người đó đang được thụ hưởng là phần được sinh ra trong một gia đình giàu có sang trọng, lại thông minh, được may mắn thành công và hưởng nhiều hạnh phúc sung sướng ở đời. Phần này là kết quả của những việc làm có thể là rất tốt, rất thiện, rất đạo đức của người đó hồi kiếp trước. Tuy nhiên phần người đó đang làm trong kiếp này như khinh người, hiếp đáp kẻ khác, có những hành động độc ác, thì những việc làm xấu xa đó là nguyên nhân của một kiếp sau có thể là sẽ rất hèn hạ, khổ đau. Kiếp sau có thể người đó sẽ phải sinh ra trong gia đình nghèo khó, lại có thể không đủ khôn ngoan, không có cơ hội học hành, phải sống cuộc đời nghèo khổ bị nhiều người khinh bỉ.

Trong thực tế ai cũng biết là khi ta đối xử tử tế, lịch sự, tốt đẹp đối với những người chung quanh ta thì dĩ nhiên ta cũng sẽ được nhiều người đối xử tử tế, lịch sự và tốt đẹp lại. Ngược lại nếu ta có những hành vi không ra gì đối với những người chung quanh ta thì khó mà mong rằng người ta thương mến, đối xử tốt với mình. Thực tế cho thấy không ai chịu tốt bụng để cứ đối xử tốt đẹp mãi với một người đã có lối xử sự không ra gì đối với mình. “Bánh sáp đi, bánh quy lại” cũng như “ăn miếng thì trả miếng” có chung ý nghãi về nhân quả.

Theo quan điểm của Đạo Phật, tích đức hành thiện sẽ thay đổi nghiệp quả ác từ đời trước, tạo nên những nghiệp thiện và nếu làm nhiều có thể báo ứng ngay hiện tại góp phần cải thiện vận mệnh. Các việc thiện có rất nhiều như giúp người khó khăn, chữa bệnh, làm đường xá cầu cống, ủng hộ thiên tai, hiến máu nhân đạo.Thực tế cho thấy hạnh phúc lớn lao của con người chỉ đạt được khi mà hạnh phúc ấy được chia sẽ với những thành viên khác trong cộng đồng. Tích đức hành thiện sẽ cải số được 8% số mệnh cuộc đời.

Chuyện kể rằng tại một ngôi chùa nọ có một chú Sa di được sư phụ cho phép trở về thăm cha mẹ, vì Sư có thần thông nên được biết trong vòng một tháng nữa là thọ mạng của chú Sa di sẽ chấm dứt. Trên đường đi về quê, chú Sa di thấy một ổ kiến lớn đang sắp sửa bị trôi theo dòng nước lũ, chú vội vàng tìm cách cứu để ổ kiến khỏi bị chết. Chú về thăm nhà và sau đó trở lại chùa. Nhiều tháng trời trôi qua, chú vẫn tiếp tục tu hành niệm Phật ăn chay bên sư phụ. Sư phụ của chú rất thắc mắc, một hôm hỏi chú chuyện gì đã xảy ra khi chú về thăm cha mẹ. Chú kể rõ tự sự chuyến về thăm quê, kể cả chuyện chú cứu vớt một ổ kiến to. Sư phụ mới hiểu việc kéo dài thọ mạng chính là nhân cứu giúp chúng sinh và nhân không sát sinh. Trong kinh Phật cũng dạy nhân sát sinh có thể đưa đến địa ngục, làm loài bàng sinh, quả báo nhẹ là làm người với tuổi thọ ngắn và hay bệnh hoạn.

Qua câu chuyện trên, chúng ta thấy muốn được quả báo giàu sang sung sướng là do nhân bố thí đời trước, được quả báo thông minh là do nhân khuyên người khác làm lành tránh ác, quả báo tướng mạo đoan trang đẹp đẽ là do nhân đời trước giúp đỡ kẻ tật nguyền. Chú Sa di trong câu chuyện trên nhân cứu mạng sống của một ổ kiến to, không giết hại chúng sinh nên mạng sống được kéo dài, không bệnh tật.

3. Phép tu tâm dưỡng tính cải mệnh

Có thể thông qua tu luyện khí công hữu ích, luyện thư pháp, hội họa, nuôi chim, trồng hoa cảnh, học tập văn hóa khoa học tri thức, không ngừng tăng cường tu dưỡng thân tâm, từ bỏ cá tính cùng tâm tính bất lương. Chỗ này chính là phép tu tâm dưỡng tính để cải mệnh.

4. Phép dùng phương hướng cải mệnh

Xuất hành, đi chơi, chọn nghề nghiệp, lựa chọn nơi ở ứng lấy dụng thần làm tiêu chuẩn, tìm địa phương thích hợp nhất cho bản thân. Ví dụ: Tứ trụ lấy kim là hỉ dụng thần, nên hướng về phương tây chỗ nơi sinh ra để mưu cầu phát triển.

Tứ trụ lấy mộc là hỉ dụng thần, nên hướng về phương Đông chỗ nơi sinh ra để mưu cầu phát triển.
Tứ trụ lấy hỏa là hỉ dụng thần, nên hướng về phía Nam chỗ sinh ra để mưu cầu phát triển.
Tứ trụ lấy thổ làm hỉ dụng thần, nên ở chỗ sinh ra mà mưu cầu phát triển.
Tứ trụ lấy kim làm hỉ dụng thần, nên hướng về phía Tây chỗ sinh ra mà mưu cầu phát triển.
Tứ trụ lấy thủy làm hỉ dụng thần, nên hướng về phía Bắc chỗ sinh ra để mưu cầu phát triển.
5. Phép dùng công việc học tập tọa hướng để cải mệnh

Đơn vị công tác học tập cũng ứng với hỉ dụng thần của bản thân, tứ trụ lấy kim là hỉ dụng thần thì chọn lựa công ty có ngành nghề thuộc lĩnh vực kim như vàng bạc, đá quý, sau đó điều chỉnh vị trí bàn làm việc:

Tứ trụ lấy mộc là hỉ dụng thần, nên tọa Đông hướng Tây.
Tứ trụ lấy hỏa là hỉ dụng thần, nên tọa Nam hướng Bắc.
Tứ trụ lấy thổ làm hỉ dụng thần, nên tọa Nam hướng Bắc.
Tứ trụ lấy kim là hỉ dụng thần, nên tọa Tây hướng Đông.
Tứ trụ lấy thủy là hỉ dụng thần, nên tọa Bắc hướng Nam.


6. Phép dùng hoàn cảnh địa lý để cải mệnh

Căn cứ hỉ dụng thần của bản thân lựa chọn sống ở thành thị, ở tầng lầu, có điều kiện tốt nhất là ở biệt thự. Ví dụ: Tứ trụ lấy kim là hỉ dụng thần, nên chọn lựa chỗ ở có đất thoáng mát và vùng nhiều kim loại, khoáng sản.

Tứ trụ lấy mộc là hỉ dụng thần, nên chọn lựa chỗ khu vực ôn đới, nhiều cây cối hoa thảo.
Tứ trụ lấy hỏa làm hỉ dụng thần, nên chọn lựa vùng nhiệt đới, vùng đại lục cùng khu vực có nhiều khoáng mỏ than đá, nhà máy điện.
Tứ trụ lấy thổ làm hỉ dụng thần, cần chọn lựa vùng hàn lạnh cùng vùng núi cao, bình nguyên.
Tứ trụ lấy kim làm hỉ dụng thần, nên chọn lựa vùng có tính mát mẻ và nhiều khoáng quặng kim, khoáng sản.
Tứ trụ lấy thủy làm hỉ dụng thần, nên chọn lựa chỗ ở vùng hàn lạnh cùng vùng có nhiều sông nước, biển.
7. Phép dùng ẩm thực để cải mệnh

Ra ngoài đi khách sạn ăn cơm cũng chọn theo tên hỉ dụng thần của bản thân. Như dụng thần là "Kim", đến khách sạn có tên là kim, như khách sạn Ngân Linh. Ở đây là dựa trên cơ sở chọn lựa thực vật ăn cơm.

Tứ trụ lấy mộc là hỉ dụng thần, nên ăn thực vật có tính ôn, ăn thịt gan mật động vật.
Tứ trụ lấy hỏa là hỉ dụng thần, nên ăn thực vật có tính nhiệt, ăn thịt động vật như tiểu tràng, tim gan.
Tứ trụ lấy thổ là hỉ dụng thần, nên ăn thực vật trung tính lại cùng với ăn thịt động vật như phổi, bao tử.
Tứ trụ lấy kim là hỉ dụng thần, nên ăn thực vật có tính mát cùng ăn thịt động vật như phổi, đại tràng.
Tứ trụ lấy thủy là hỉ dụng thần, nên ăn thực vật có tính hàn cùng ăn các loại thịt động vật như thận, bàng quang và các loại cá.
8. Phép dùng dược vật để cải mệnh

Sử dụng thuốc và nguồn thuốc có phương hướng thuộc hỉ dụng thần của mệnh. Ví dụ:

Tứ trụ lấy mộc là hỉ dụng thần, có thể dùng dược vật có tính ôn (ấm).
Tứ trụ lấy hỏa là hỉ dụng thần, có thể dùng dược vật có tính nhiệt.
Tứ trụ lấy thổ là hỉ dụng thần, có thể dùng dược vật trung tính.
Tứ trụ lấy kim làm hỉ dụng thần, có thể dùng dược vật có tính mát.
Tứ trụ lấy thủy làm hỉ dụng thần, có thể dùng dược vật có tính hàn.
9. Phép dùng chữ, số để cải mệnh

Chữ số Ngũ hành: Mộc là 1, 2, hỏa là 3, 4, thổ là 5, 6, kim là 7, 8, thủy là 9, 0. Căn cứ hỉ dụng thần tứ trụ ngũ hành chỗ thuộc chữ số, bản thân lựa chọn đúng chữ số có ích để tiến hành bổ cứu, như biển số nhà, biển số xe, số điện thoại, điện thoại bàn và điện thoại di động, tầng lầu, số hiệu công việc ….

Hiểu đơn giản là Ngũ Hành của bản mệnh cần bổ cứu hành gì thì sử dụng các con số phù hợp để bổ trợ. Ví dụ: người mạng Mộc dùng số 1, 2 thì may mắn hơn các số khác…

10. Phép dùng nghề nghiệp để cải mệnh

Căn cứ hỉ dụng thần ngũ hành tứ trụ chỗ thuộc đơn vị đóng trên phương vị ngũ hành nào, hành của nghề nghiệp, mà bản thân chọn lựa nghể nghiệp thích hợp, chỗ này là phép chọn nghề để cải mệnh.

11. Phép chọn phối ngẫu để cải mệnh

Căn cứ hỉ dụng thần ngũ hành tứ trụ vượng suy cùng có hay không, chọn lựa tứ trụ đối phương, trong bát tự có lợi cho ngũ hành bát tự của bản thân, là lấy đối tượng phối ngẫu chỗ hỉ của mệnh cục bản thân, đây là phép chọn phối ngẫu để cải mệnh; trai tài gái sắc, như keo như sơn, sống đến bạc đầu, anh hùng mỹ nhân những thứ này đều là khắc họa đối với hôn nhân mỹ mãn; uyên ương ẩu đả, Ngưu lang Chức nữ, nhân duyên trói buộc, vợ chồng oán hận, cùng giường mà khác mộng, vợ chồng tương phản, tuổi trẻ mà ở góa đều là mô tả đối với bi kịch hôn nhân. Như hai loại trên tuyệt nhiên đều có hiện tượng hôn nhân khác nhau, ở góc độ xã hội học nghiên cứu thì không có cách nào tìm ra căn nguyên vấn đề, cũng chính là không có cách nào tìm ra phương pháp ngăn chặn bi kịch. Việc lựa chọn người bạn đời là khó nhất, vào thời kỳ trọng nam khinh nữ, thì khi muốn chọn người con dâu, họ yêu cầu bên nữ cung cấp bát tự của nàng dâu để thầy mệnh lý xem xét, nàng dâu có vượng phu ích tử hay không.

12. Lựa chọn bạn bè, đối tác để đổi vận

Đối tác, bạn bè của chúng ta cần và họ cũng cần, thì sự trao đổi này tương đối thuận lợi, tương trợ lẫn nhau trong mọi công việc, cuộc sống. Chẳng hạn chúng ta cần Thủy thì những người có thể giúp và hỗ trợ chúng ta nhiều nhất là những người vượng Thủy, vì bản thân mọi người điều có khí ngũ hành vượng nhất vì thế đây là phương pháp chọn lựa rất hữu ích để thay đổi cải vận mệnh của chúng ta.

13. Phép dùng tên y phục, màu sắc để cải mệnh

Trước tiên chọn lựa tên loại y phục cũng theo hỉ dụng thần bản thân. Như dụng thần là "Kim", chọn hiệu kim phong, hiệu ngân linh. Sau đó căn cứ ngũ hành tứ trụ hỉ dụng thần chỗ thuộc màu sắc, nên chọn y phục có màu sắc cùng tên với ngũ hành hỉ dụng thần (y vật trong, ngoài, mũ, giầy, tấc …) hoặc tiến hành bổ cứu trang sức phẩm cho nhân thân.

- Mệnh cục hỉ kim, chọn y phục màu trắng,

- Hỉ hỏa, có thể mặc y phục màu hồng;

- Mệnh cục hỉ thủy, có thể mặc y phục màu đen, màu lam;

- Hỉ mộc, tất cần chọn y phục màu xanh lục,

- Hỉ thổ, chọn y phục màu hồng, màu vàng.

Lưu ý: Những tư vấn về y phục, màu sắc ở trên cần phải xem xét trên cả khía cạnh của lý thuyết phong thủy. Bởi vì nếu chỉ xem xét đơn thuần một chiều bằng tứ trụ như ở trên có thể sẽ phản tác dụng với các cá nhân khác đang sinh sống trong ngôi nhà đó hoặc có thể sẽ trái với các lý thuyết về bài trí phong thủy (Loan đầu, huyền không).

14. Phép dùng vật dụng để cải mệnh

Căn cứ hỉ dụng thần ngũ hành tứ trụ chỗ chủ về màu sắc, chọn lựa màu sắc dụng cụ cùng với màu sắc hỉ dụng thần ngũ hành để tiến hành cải mệnh. Như hỉ dụng thần chỗ màu sắc thuộc là màu lục, thì chọn màu lục, màu xanh sinh hoạt và dụng phẩm công việc. Như dụng cụ gia đình, chăn nệm giường ngũ, màu sắc vách tường, gạch nền nhà, màu bút viết, màu dao …

Lưu ý: Những tư vấn về màu sắc, vật dụng ở trên cần phải xem xét trên cả khía cạnh của lý thuyết phong thủy. Bởi vì nếu chỉ xem xét đơn thuần một chiều bằng tứ trụ như ở trên có thể sẽ phản tác dụng với các cá nhân khác đang sinh sống trong ngôi nhà đó hoặc có thể sẽ trái với các lý thuyết về bài trí phong thủy (Loan đầu, huyền không).

15. Dùng thuật phong thủy trong cải biến vận mệnh

Phong Thuỷ là môn khoa học tổng hợp của các môn khoa học thực nghiệm và lý thuyết khác như vật lý địa cầu, thủy văn địa chất, vũ trụ tinh thể học, khí tượng học, môi trường học và kiến trúc.

Người vận dụng phải có kiến thức tổng hợp, biết xem xét thiên nhiên môi trường, cải tạo nó thành môi trường tối ưu cho con người sinh sống để phát triển tốt đẹp. Đích cuối cùng của Phong Thuỷ phải là Thiên - Nhân - Địa hợp nhất, con người đạt đến cái đích thấu hiểu những quy luật của trời đất và sống hòa hợp với những quy luật ấy. Từ trước đến nay những quy luật của thiên nhiên, của trời đất vũ trụ vẫn vô tư tồn tại, chỉ có con người duy ý chí mới cho rằng mình sống không cần phụ thuộc vào nó nên vô tình đã phạm phải những điều gây tai họa cho chính bản thân con người. Cải biến vận mệnh theo Phong Thủy địa lý như hướng nhà hướng cổng, cửa phòng ngủ, bếp hợp với cung phi gia chủ thì sẽ thay đổi được 10% số mệnh cuộc đời.

16. Đổi chữ ký để thay đổi vận mệnh 

Chữ ký cũng có tác dụng là thay đổi sự may mắn hay rủi ro trong cuộc đời. Có chữ ký làm cho cuộc sống gặp may mắn, công viêc trôi chảy nhưng cũng có chữ ký làm cho cuộc sống trở nên thăng trầm bất định. Nếu đang xui, ta đổi chữ ký và thấy cuộc đời thay đổi tốt lên thì hãy dùng chữ ký đó. Khoa tướng số chỉ cần nhìn chữ ký người ta có thể đoán biết về số phận của người ký tên.

Luận cát hung qua ngoại hình ngôi nhà

Theo kinh nghiệm của các nhà Phong thủy thì kết cấu nhà ở của một gia đình cũng phải hợp thành một khối thống nhất với hoàn cảnh địa lý bên ngoài nhà ở. Nghĩa là làm sao cho nhà ở hài hòa với tự nhiên xung quanh.

Một căn nhà lý tưởng trong Phong thủy cần thiết có sự thông thoáng, bảo đảm ánh sáng tự nhiên và có đường hướng gió thổi vào cho thật lưu thông. Trong khoa Phong thủy nội thất tự nhiên cũng như trạch mệnh của từng gia chủ. Thiết kế Phong thủy nhà ở cũng giống như thân thể nội tạng của con người. Cánh cửa cái giống như một cái miệng được sự hấp thu từ khí trời cũng là nơi nghinh tiếp các chư vị thập phương cũng như khách hàng, bạn bè… Phòng chủ nhân giống như tim gan, ở vị trí trung tâm ngôi nhà.



Hành lang chính từ cổng, cửa lớn thông tới phòng chính của chủ nhân giống như khí quản, thông đến thư phòng, gian bếp,… như kinh mạch hoặc huyết quản. Nếu cơ thể chúng ta sinh ra chẳng may bị các bộ phận nội tạng nằm sai vị trí, dư hoặc thiếu thì cũng khác thường, làm ảnh hưởng đến sức khỏe. Vì vậy, bố trí sắp xếp các phòng ốc là rất cần thiết cho chúng ta.

Ví dụ một căn nhà không thể bố trí miệng cầu thang ngay giữa phòng khách hoặc phòng ngủ… Để thiết kế phù hợp nhất đầu tiên là phòng khách sau đó là phòng ngủ, bếp, toilet cuối cùng là phần không gian nhỏ để tạo giếng trời nhằm đưa gió, không khí tự nhiên vào nhà. Nếu các bạn chỉ thiết kế sai 1 vài vị trí có thể làm ảnh hưởng rất nhiều đến sức khỏe cũng như tinh thần hoặc tài lộc…

Để trở lại chủ đề luận cát hung phong thủy qua ngoại hình gia trạch, tác giả có đôi điều kiến giải những ưu và khuyết điểm để các gia chủ có tầm nhìn sâu rộng hơn về phong thủy ngoại thất. Theo đó, đường đi lấy thông thương làm chính. Đường sá ở bốn phía quanh nhà thế nào, khoa địa lý đều có nghiên cứu, điều quan trọng nhất là: tuyệt đối không nên có đường đâm thẳng vào trước cửa, vì như thế chủ về trong nhà bất hòa, con đường kia sẽ mang bệnh tật từ bên ngoài vào nhà và đem cát khí từ trong nhà ra đi cũng có thể ảnh hưởng về bệnh máu huyết.

Nhà nằm trên đường hình chữ đinh, chủ về phá bại. Luận về cát hung, vượng suy của trạnh vận, thì có hai loại đường hình chữ đinh. Một là đường chữ đinh hướng ngoại, hai là đường chữ đinh hướng nội. Theo kinh nghiệm, loại đường chữ đinh hướng nội là không tốt, sẽ có tai họa nặng, bởi vì phòng ốc không nên bị trực xung (đâm thẳng vào).

Dương trạch (phần từ nền nhà trở lên) có liên hệ mật thiết tới họa phúc, cát hung của đời người. Vì trời có thiên vận, đất có địa vận, người có mạng vận, nhà có trạch vận. Nền nhà đằng trước cao, đằng sau thấp là không tốt, vì khí bị tù hãm.

Dương trạch tốt là các phương diện được điều hòa cân bằng, vừa đề phòng tai họa,vừa bảo đảm vệ sinh ở xung quanh lại ánh sang đầy đủ, thông thoáng, yên tĩnh.
Khi thiết kế và thi công, phải bảo đảm trong nhà đủ ánh sáng, thích hợp lòng người thoải mái, sinh hoạt mỹ mãn…

Luận về ngoại hình nhà ở, phàm phía bên tả có lưu thủy (sông, dòng chảy), thuật phong thủy gọi là thanh long, mé hữu có đường dài hoặc hàng cây, gọi là bạch hổ, phía trước có ao hồ gọi là chu tước, đằng sau có gò cao gọi là huyền vũ, thì là đất cực quý.

Trước cửa, nhìn thẳng có ngôi nhà trống, thì nam nữ thường than khóc, nghĩa là hay phát sinh những điều bất hạnh.

Nhà trước thấp, sau cao, chủ phú quý. Còn trước cao sau thấp, thì rất bất lợi, lớn bé trong nhà không có tôn ti trật tự.

Tối kỵ cư trú ở nơi xung yếu, ở đền chùa, miếu mạo, ở gần nơi thờ cúng có qui mô lớn, ở nơi có giao thông bất tiện, cỏ cây cằn cỗi xác xơ, ở ngay dòng chảy xộc thẳng tới, ở nơi sóng núi chọc thẳng đến, ở đối diện với cổng nhà lao, ở ngay cửa bể.

Trong Phong Thủy có dạy ''Địa Lý bất ngoại địa hình'' (địa lý không ngoài hình thế đất đai''. Thế đất hình túi đựng gạo chiêu phúc, chiêu tài hay giống như trong bài "Địa đạo diễn ca" của cụ Tả Ao, cụ đã nhiều lần nhấn mạnh về việc phải có nút thắt. Câu 51 cụ viết: “Thắt cổ bồng phồng ra huyệt kết” và câu 59 lại nhấn mạnh “Thắt cuống cà phì ra mới kết”.

Ở Sa Điền (Trung Quốc) có một mánh đất địa thế rất đẹp, tầng đất sét rất qúy hiếm. Nó thuộc một trong bảy loại đất sét cát lợi. Đó là đất sét Thái Cực, đất sét Ngũ sát, đất sét vàng, nâu, hồng, tím, đỏ. Đó là mảnh đất tổ nhà đại phú họ Lý ở Hongkong. Hiện gia đình này đang có kê hoạch cho cháu đích tôn làm đất kinh doanh. Người thư ký của cháu đích tôn này cho rằng: Nếu xây dựng nhà cửa ở đây, kinh phí rất lớn. Sau khi bàn bạc, họ nhờ một nhà phong thủy Đại Sư Lý Cư Minh nối tiếng xem xét phong thúy rồi mới quyết định.
Lý Cư Minh đi một vòng nói với người thư ký rồi nói: - “Đây là mảnh đất loại hình túi gạo”. Người thư ký tỏ vẻ không hiếu. Thầy Lý bèn vẽ túi gạo trên đất, anh ta lập tức hiếu ngay. Miệng túi gạo rất bé, bụng thì rất lớn. Thầy Lý giải thích: - “Phong thủy rất coi trọng hình tướng, đất có hình túi gạo là đất qúy. Mảnh đất này tọa Dậu hướng Mão, cửa mở chính giữa miệng túi gạo, hiện năm nay là năm 1985 vừa bước vào Thất Vận (1984-2003) được 2 năm. Hướng Dậu Mão là hướng đáo sơn đáo hướng của Thất vận. Hướng Đông là cổng, chính là miệng túi gạo, lại có Giả thủy Minh đường cục. Nếu nhìn ra xa còn có đại minh đường. Nếu làm nhà trên mảnh đất này tất phát.
Người thư ký bèn trèo lên dốc nhìn, quả nhiên thấy phía Đông xa xa là một cái hồ nước lớn đúng như lời bình luận của Đại Sư Lý Cư Minh.
Chỉ tay vào dãy núi sau lưng mảnh đất, Lý Cư Minh nói tiếp: “Sau mảnh đất này có núi dựa tọa Dậu là núi mới hay, ứng nghiệm thất tinh đáo sơn. Theo phong thủy luận thì Thủy Thần đáo thủy, Sơn Thần đáo sơn, tài đinh đều vượng. Cục này vừa vượng tài, vừa vượng đinh. Đinh vượng thì thân thể khỏe mạnh”.
Quả nhiên, gia tộc họ Lý đã quyết định đầu tư xây một một khu chung cư cao cấp và làm ăn rất phát đạt. Vì vậy nêu bạn có ý định làm nhà, mở cửa hàng buôn bán, mở hiệu bán điện thoại sky vega iron 2 mảnh đất trên có thể là một gợi ý không tồi cho bạn
Biết đây là mảnh đất đắc địa, một người bạn của Lý Cư Minh đã đến ở một phòng trong chung cư cao cấp này. Chỉ sau vài năm, anh ta (đã trở thành ông chủ một công ty vận tải lớn, đồng thời còn là đại cổ đông của tập đoàn khách sạn số một ở Hongkong.
Ban đầu khi xem mảnh đất này, đối chiếu với bát tự (ngày sinh tháng đẻ) cùa anh ta thấy mệnh anh ta khuyết Thổ khuyết Kim. Dậu ở phương Tây là vị trí chân Kim, thấy núi là thấy Thổ. Âm sinh (tự sinh) Kim Thổ. Mảnh đất này còn có đất sét màu đỏ,- là tượng Hỏa sinh Thổ. Người sống trên mảnh đất này tất sẽ nổi tiếng. Thực ra chỉ có những người bát tự hợp với mảnh đất này mới phát. Người ngũ hành khuyết hành nào ớ phương vị hành khuyết sẽ phát tài phát lộc. Cổng ở hướng Mão, Mão có tượng quẻ Tổn, quẻ Lâm, quẻ Cách, quẻ Đồng Nhân. Năm đó, Đại Sư Lý Cư Minh đặt cổng ở phương quẻ Đồng Nhân 8705. Hiện nay rất khó tìm thấy mảnh đất hình túi gạo. Ớ Đại Phổ, Thượng Hải vẫn còn mảnh đất loại này. Do tự nhiên hình thành từng hao tạo thành “túi gạo”, ở Tây Cống, Thượng Hải cũng có manh (lát hình túi gạo, đáng tiếc lại mở cổng ngách làm chỗ cho ô tô ra vào khiến mảnh đất trở thành đất bại cục, còn gọi là đất “túi gạo thủng”.

TỬ VI ĐẨU SỐ: LUẬN THIÊN MÃ - DỊCH MÃ

Thiên Mã - Dịch Mã chỉ là một phụ tinh nhưng lại đóng những vai trò khá quan trọng trong một lá số. Có thể nói từ lá số của một bậc quân vương, một danh tướng, một thương gia, hay một người bình dân mà đến thời điểm nào đó trong cuộc đời tạo dựng được những công danh sự nghiệp cho mình thì hầu như lá số của họ không thể không có sự góp phần của Thiên Mã.

Lý do thật đơn giản vì Thiên Mã là biểu tượng của tài năng. Bởi vậy, một lá số mà cung Mệnh và cung Thân có Thiên Mã tọa thủ gọi là cách Dịch Mã.



Người ta thường cho rằng Thiên Mã thuộc hành Hỏa và trong 12 cung của lá số Thiên Mã chỉ đóng ở 4 cung là Dần, Thân, Tỵ, Hợi, và chỉ đắc địa ở hai cung Dần và Tỵ mà thôi. Trong khoa Tử Vi, Thiên Mã là biểu tượng của chân tay, hoặc phương tiện di chuyển như xe cộ, tàu bay, tàu hỏa…

Đặc tính chủ yếu của người Dịch Mã là tính năng động, tháo vát, đảm đang, quán xuyến, thích di chuyển, thích tranh cãi, hay thay cũ đổi mới…Với những đặc tính ấy cho nên Thiên Mã không chỉ ảnh hưởng ở hai cung Mệnh và Thân mà nó còn tác động mạnh mẽ vào các cung chính như Quan Lộc, Thiên Di…là những lãnh vực của công danh và sự nghiệp.

Tuy nhiên khi nói đến mẫu người Dịch Mã, chúng ta phải hiểu rõ ý nghĩa của chữ “dịch” là xê dịch, chuyển đổi, di chuyển, biến động… do đó cũng có người cho rằng hành của Thiên Mã thay đổi theo hành của cung mà Thiên Mã tọa thủ. Có nghĩa là, khi Mã tọa thủ ở Dần (hành Mộc) thì Mã ứng với người mạng Mộc và Hỏa. Ở cung Tỵ thì Mã ứng cho người mạng Hỏa và Thổ. Khi ở cung Thân thì Thiên Mã ứng với người mạng Kim và Thủy…v.v. Nhu vậy, khi hành của Thiên Mã ứng hợp với hành của Mệnh thì đương số là người có tài năng và có hoàn cảnh cơ hội để thi thố hết tài năng của mình. Còn ngược lại thì tuy có tài, có nghị lực nhưng cuộc đời lại không được những vận hội may mắn, không được đời biết đến khiến cho tài năng phải bị mai một như một kẻ sinh bất phùng thời.

Người có Mệnh an ở hai cung Dần Thân có Tử Phủ và Thiên Mã tọa thủ đồng cung gọi là cách Phù Dư Mã, là ngựa kéo xe cho Vua chỉ những người có tài năng, giữ những chức vụ cố vấn, phụ tá cho các cấp chỉ huy của một đơn vị quân đội, hay giám đốc của một cơ sở hành chánh, thương mại…Hoặc cũng có thể là những người không giữ một chức vụ gì chính thức nhưng ra đời thường được kề cận với những người có quyền thế trong xã hội.

Người có Thiên Mã thủ Mệnh và có Nhật Nguyệt đồng cung hay hợp chiếu là cách Thư Hùng Mã. Một đôi ngựa tốt, chỉ người văn võ song toàn, nhưng cách này thường phát về văn nghiệp hơn là võ nghiệp. Đây là mẫu người có kiến thức sâu rộng, có trình độ học vấn, có năng khiếu về các ngành như ngoại giao, chính trị, văn học và nghệ thuật. Nếu đã đi vào những lãnh vực vừa nêu trên thì mẫu người Thư Hùng Mã này sẽ đạt được những công danh sự nghiệp một cách dễ dàng, và có người có thể thành công trên cả hai lĩnh vực cùng một lúc. Chẳng hạn họ có thể là một nghệ sĩ nổi danh lại vừa giàu có nhờ làm thương mại. Người Thư Hùng Mã có khả năng song thủ hỗ bác tương tự như người có Thân cư trong tam hợp Phúc, Di, và Phu Thê.

Người có Thiên Mã gặp Lộc Tồn đồng cung là cách Chiết Tiễn, có nghĩa là bẻ roi đánh ngựa, giục ngựa lên đường, chỉ người có tài. Khởi sự làm gì cũng được may mắn thuận lợi. Nếu Thiên Mã ở Mệnh có Lộc Tồn ở Thiên Di xung chiếu thì đây là cách Lộc Mã Giao Trì, ngựa ăn cỏ trên cách đồng xanh, là người được vận hội may mắn, được thừa hưởng những công lao thành quả của người khác làm. Và theo ý nghĩa của Lộc Tồn là lộc trời cho, nên cả hai cách vừa nêu trên cũng chỉ những người trở nên giàu có nhờ trúng số, hoặc được thừa hưởng tài sản của ông bà, cha mẹ để lại. Người có Lộc Mã mưu sự chuyện gì hãy nên mạnh dạn vì thường được may mắn.

Người có Thiên Mã thủ Mệnh gặp Hỏa Tinh hay Linh Tinh là Chiến Mã, ngựa xuất trận. Cách này chỉ người có tài năng là thường là phát về võ nghiệp nếu gặp một lá số tốt. Đây là số của những quân nhân được thăng cấp rất nhanh chóng. Tuy nhiên cách Chiến Mã này tiềm tàng những tai họa về chân tay như thương tật hay tàn khuyết nếu không có những cách hóa giải. Nếu đủ bộ Mã Hỏa Linh thì có thể tay chân bị tê bại từ nhỏ, hoặc bị bại liệt do các chứng bệnh khác đưa đến như bị tai biến mạch máu não, tiểu đường .v.v…

Người có Thiên Mã thủ Mệnh gặp Thiên Khốc, Điếu Khách là cách Mã Khốc Khách, có nghĩa là ngựa đeo lục lạc vàng, chỉ những người có tài năng, có danh tiếng trong một lãnh vực nào đó. Hạn gặp Mã Khốc Khách thì vận hội may mắn đã đến, là thời điểm mà danh tiếng của mình được người đời biết đến. Đối với một lá số trung bình thì đương số cũng gặp được những cơ hội may mắn như được cấp trên giao phó công việc và được tín nhiệm hay thăng thưởng do khả năng và những thành quả tốt đẹp của mình.

Người có Thiên Mã thủ Mệnh gặp Phi Liêm đồng cung hay xung chiếu gọi là cách Phi Mã, là ngựa có cánh bay như trong truyện thần thoại của Hy Lạp, ý nghĩa cũng tương tự như Mã Khốc Khách, chỉ người có tài năng và được nhiều may mắn, làm việc gì cũng thành chông dễ dàng và nhanh chóng. Hạn gặp Phi Mã là có sự thay đổi, hoặc di chuyển. Nếu khởi sự một điều gì trong hạn này thì chớ có ngần ngại vi Phi Mã đáo hạn là thời cơ đã đến. Người có cách Phi Mã thường thích hợp với những công việc đi đây đi đó, cuộc đời là những chuyến hành trình không dứt.

Thiên Mã thủ Mệnh gặp Thiên Hình đồng cung là cách Phù Thi Mã, là ngựa kéo xe tang. Người có cách này suốt đời cực khổ, làm việc gì cũng khó khăn trắc trở, thành ít bại nhiều, và thường gặp toàn những chuyện xui xẻo, đau thương, buồn khổ, tang tóc triền miên. Hạn gặp Mã Hình thì phải hết sức thận trọng trong mọi việc, vì những gì sẽ đến trong thời gian này chỉ là những chuyện buồn hoặc ngoài sự mong đợi của mình.

Thiên Mã thủ Mệnh gặp Đà La đồng cung gọi là Mã Đà hay Chiết Túc Mã. Có ý nghĩa là ngựa què, chỉ những người không được may mắn, hay gặp khó khăn trắc trở. Cuộc đời nhìn chung toàn là những lao đao lận đận. Cùng là một việc, người khác làm thì thuận lợi may mắn, mình làm thì khó khăn, trở ngại. Bởi vậy trên phương diện dùng người, thì giao một công việc cần có kết quả sớm, hay một kế hoạch quan trọng cho người có số Mã Đà hay đang trong vận Mã Đà thì đây là một quyết định từ sai lầm đến mạo hiểm của người có trách nhiệm.

Thiên Mã thủ Mệnh gặp Tuyệt đồng cung, gọi là Mã Tuyệt hay Cùng Đồ Mã. Có nghĩa là ngựa chạy đến đường cùng, chỉ người làm việc thường thất bại, cuộc đời thường lâm vào cảnh bế tắc. Tương tự nếu Mã thủ Mệnh gặp tuần triệt, gọi là Tử Mã, nghĩa là ngựa chết, ngựa vô dụng, ý nghĩa và tai họa còn nặng hơn Cùng Đồ Mã.

Thiên Mã là một trong những lưu tinh (sao lưu) khi xem hạn. Có nghĩa là vị trí của Thiên Mã sẽ thay đổi theo mỗi năm và gọi là Lưu Thiên Mã. Đó cũng là ý nghĩa thứ ba của chữ “Dịch” khi gọi Thiên Mã là Dịch Mã.

Khi xem hạn, nếu thấy Thiên Mã và Lưu Thiên Mã đồng cung, xung chiếu hay hợp chiếu thì những điều sau đây sẽ xảy đến trong vận hạn: mua xe, đổi xe, đổi chổ ở, đổi việc làm, đi du lịch v.v…Có thể chỉ xảy ra một sự việc mà thôi. Ví dụ: nếu đã đổi chổ ở thì sẽ không thay đổi việc làm, đi xa v.v… Nhưng cũng rất có thể xảy ra hai sự việc cùng một lúc. Những gì thay đổi trong vận hạn ít nhiều tùy theo vị trí của Thiên Mã và Lưu Thiên Mã đồng cung hay xung chiếu. Mức độ tốt xấu của sự việc còn tùy thuộc vào những sao chi phối trong hạn đó. Có thể là bị mất việc (không tốt) phải tìm việc khác. Cũng có thể vì được thăng chức nên phải giữ công việc khác (tốt).

Tóm lại, khi nói đến Thiên Mã điều quan trọng mà chúng ta phải cân nhắc là hành của Thiên Mã và hành của bản Mệnh. Nếu cả hai cùng hành, hoặc hành của Mã sinh cho hành của bản Mệnh thì Mã này mới là Mã của mình. Ngược lại nếu không đồng hành thì Mã này chỉ là cái bóng mà thôi.

Trên thực tế chúng ta thấy hai lá số đều có Thiên Mã thủ Mệnh nhưng khả năng và sự may mắn của hai người hoàn toàn khác nhau rất nhiều. Người có Thiên Mã không hợp với bản Mệnh thì cũng là người có tài năng nhưng tánh tình rụt rè, nhút nhát, thiếu lòng tin, và không có ý chí phấn đấu để nắm lấy cơ hội, cho nên cuối cùng dễ trở thành bất đắc chí.

Với một lá số trung bình trở lên, người Dịch Mã là người đa tài. họ có nhiều năng khiếu nổi bật và có thể thành công trên nhiều lãnh vực khác nhau. Họ là những người năng động, thích sự đổi thay và những chuyến hành trình như những bông hoa tô thắm cho cuộc đời của họ. Về khía cạnh này, cá tính của người Dịch Mã có phần nào giống như mẫu người Thân Cư Thiên Di.

(t/h)

Sao Thiên Mã và công danh trong cuộc đời

Có thể người học Tử vi tìm rất nhiều mà không đạt. Đó là trường hợp mà chúng tôi gặp phải. Có những lá số mà Mệnh rất tầm thường, ấy thế mà đương số lại thành đạt lớn, không biết vì đâu, trong khi điểm mọi cách khá về Mệnh, Thân mà không thấy sao Thiên Mã có tại Mạng, phải chăng vì thế mà đương số được tốt? Nhưng lấy gì chứng thực? Có hai lá số tương trợ nhau, cùng có Thiên Mã nhưng lại chỉ có 1 đương số thành đạt.

Một là số khác có Thiên Mã tại mệnh, ở Hợi: thế là Mã cùng đường, theo tất cả các sách cổ. Thế nhưng đương số này cũng thành đạt nữa. Cho nên tất phải có một cái gì đặc biệt về sao Thiên Mã, một sao rất quan trọng trong việc giải đoán Mệnh Thân, nhưng những nguyên tắc chưa được nêu ra đầy đủ.

Chúng tôi xin trình bầy sau đây kinh nghiệm của cụ Thiên lương về sao Thiên Mã tại Mệnh, Thân. Kinh nghiệm này, chúng tôi đã kiểm chứng trong một số lá số có trong tay, thấy rằng đúng.



Cách an sao Thiên Mã

Chúng ta an sao Thiên Mã theo hàng chi của tuổi
Tuổi Dần Ngọ Tuất, Thiên Mã tại Thân
Tuổi Tị, Dậu, Sửu, Thiên Mã tại Hợi
Tuổi Thân Tý Thìn, Thiên Mã tại Dần
Tuổi Hợi, Mão, Mùi, Thiên Mã tại Tỵ
Nhưng vậy tùy từng bộ ba tam hợp tuổi mà an Thiên Mã. Để cho dễ nhớ, chúng ta có từng bộ ba tam hợp tuổi, mỗi bộ ba có một Chi đứng đầu, thì Thiên Mã ở cung đối diện của Chi ấy. Thí dụ: các tuổi Dần Ngọ Tuất (có Dần đứng đầu), vậy Thiên Mã ở cung đối diện với Dần, tức là cung Thân.

Những cách thông thường về Thiên Mã

Các sách cổ giải đoán về Mã thường ghi những điểm như sau:
1-Mã thuộc Hỏa, vạy là Mã tốt ở Tị, Dần và hãm ở Hợi (Thủy) Mã mà ở Hợi là hỏng, là Mã cùng đồ (ngựa hết đường chạy, ngựa ở biển thì liệt bại). Gặp Mã ở Hợi thì thất bại. Như thế chẳng lẽ cứ 3 tuổi Tị, Dậu, Sửu là đương nhiên mất sao Thiên Mã và chịu họa hại vì 3 tuổi này. Mã đóng tại Hợi. Không lẽ giản dị như vậy?
2-Mã tại Mệnh, ứng vào sự mau lẹ hay di chuyển, hay thay đổi.
Mã còn ứng vào công danh, tài lộc và phúc thọ. Thông minh và làm nên cũng là nhờ Thiên mã.
3-Tại Dần Thân, đồng cung với Tử Phủ, là Phù du Mã (ngựa vua chúa): tài giỏi, uy quyền, giầu sang, phúc thọ.
4-Thêm Nhật, Nguyệt sáng sủa là Thư hùng mã: tài ba, giầu sang, vinh hiển.
5- Gặp Lộc tồn đồng cung: công danh tốt, tài lộc tốt
6-Gặp Lộc tồn xung chiếu (Lộc Mã giao trì): công danh và tài lộc tốt đẹp.
7-Mã đồng cung Hỏa, hay Linh (chiến mã): Công danh tốt đẹp về binh nghiệp.
8-Mã khốc khách hội họp (ngựa có nhạc hay, có người cưỡi giỏi) người có tài năng, có công danh về binh nghiệp.
9-Mã Hình đồng cung: gặp tai họa
10- Mã Đà đồng cung: chiết túc mã, ngựa què. Công danh gãy đổ (kinh nghiệm của cụ Ba La: người tuổi Âm, Kình ở trước lộc tồn, Đà ở sau Lộc tồn, nhưng theo chiều nghịch).
11- Mã Tuyệt đồng cung là cùng đồ Mã. Mã tại Hợi cũng là cùng đồ Mã: hỏng, suy bại, gặp tai họa.

Đi tìm ảnh hưởng của Mã

Cũng như đối với mọi sao quan trọng, cụ Thiên lương đã luận về Thiên Mã bằng cách lấy hành của cung Mệnh, hành của sao Thiên Mã và hành Mệnh của đương số mà so sánh với nhau rồi quyết định sự hay dở. Đó là giai đoạn đầu để tìm kinh nghiệm. Giải đoạn sau là kiểm chứng, áp dụng các kết quả của những suy luận vào những lá số có Thiên mã tại Mệnh, Thân để tìm xem có đúng không.

Nhưng trước hết, xin ghi rằng Thiên Mã đây là tại Mệnh và Thân. Thiên mã ở Quan lộc hay Tài bạch cũng có ảnh hưởng vào mệnh (vì hai cung này chiếu mệnh), nhưng ảnh hưởng kém hơn Thiên Mã tại Mệnh. Nếu Thiên Mã ở cung Thiên Di, thì lại không kể vào mệnh là vì Mã tại Thiên Di là xung chiếu chứ không phải hợp chiếu.


Thiên Mã tại cung Dần

Thiên Mã hỏa, ở cung Dần Mộc là được Mộc sinh Hỏa, Thiên Mã mạnh và tốt. Nhưng cái mạnh và tốt này không phải cho bất cứ mạng nào.

Như người mạng Kim, thì càng bị Hỏa khắc, không lợi. Người mạng Thủy cũng không được lợi lộc gì, vì cái Thủy đó không thắng nổi cái Hỏa đương vượng của Mã. Mã hỏa ở đây có thể lợi cho người mạng Hỏa và càng hợp với người mạng Mộc. Người ta thường cho rằng mạng Mộc mà gặp Hỏa, thì bị hỏa đốt cháy, nhưng mạng là Mộc, cung Mạng lại ở Dần tức là tại Mộc thì không e ngại gì, tài năng nhờ chỗ Mã được nuôi dưỡng (do Mộc) mà càng vượng lên.

Vậy Mã tại Dần:

-Rất tốt cho người mạng Mộc
-Lợi cho người mạng Hỏa
-Không lợi gì cho người mạng Kim, Thổ và Thủy.

Thiên Mã tại cung Tị

Thiên Mã đứng đây cũng tốt vì là Hỏa ở cung Hỏa. Mã ở đây là con ngựa chiến. Mã là Hỏa, cung là Hỏa, thì người Mộc gặp Mã và cung Mạng tại đây, tuyệt nhiên là không tốt (hai cái Hỏa đốt cháy thân xác). Người mạng Kim, không được tốt, vì hai cái hỏa đều khắc Kim. Người mạng Thủy, cũng không được hưởng gì, vì Thủy yếu, không thể ngự được cái Hỏa của Mã (nếu kể như trường hợp Mã gây họa hại), còn bình thường, Mã không gây họa hại vì người Thủy cũng không được hưởng.
Chỉ có người Hỏa được hưởng cái tốt của Mã tại Tị.

Thiên Mã tại cung Thân

Thiên Mã là Hỏa, ở tại cung Thân là Kim, ấy là Thiên Mã đã kém. Thiên Mã không bị khắc là Thiên Mã mạnh, và tốt nhưng Thiên Mã lại khắc Kim.

Nếu là người mạng Mộc, thì mạng này vừa bị Hỏa đốt, vừa bị cung khắc, không được lợi lạc gì. Người mạng Thủy đỡ được chút đỉnh, nhờ cung Kim sinh Thủy, và cái mạng Thủy của mình còn khá mạnh để chế ngự lại Mã. Người mạng Kim là ăn nhất về con Mã tại cung Kim, nhưng vì Mã Hỏa khắc Kim mạng, cho nên mình tuy được hưởng Mã mà có tài năng, nghị lực, nhưng mình lại bị khắc, thì sức khỏe của mình cũng phải bị hao tổn.
Vậy Mã tại Thân:
-Tốt cho người Kim
-Khá cho người Thủy
-Không lợi gì cho người Mộc và Hỏa

Thiên Mã tại cung Hợi

Thiên Mã là Hỏa, ở cung Hợi Thủy, thì Hỏa phải bế khắc (ấy là Mã cùng đồ, Mã đến biển là hết đường chạy).

Người Hỏa mà gặp Mã ở cung hợi thì chẳng được lợi lạc chi. Người Kim gặp Mã ở cung Hợi cũng vậy, có khi còn mệt hơn, là vì mạng mình bị sinh xuất, còn bị hỏa của Mã khắc. Nhưng người Thủy lại khác: xét ra người Thủy lại có mạng ở Thủy, thì cái Thủy này rất mạnh, có thể chế ngự được những cái họa hại của Mã mà thắng được Mã, tức là có tài ba để thắng. Người Mộc nhờ có cung Thủy sinh Mộc, mà được lợi phần nào.
Vậy Mã tại Hợi:
-Tốt cho người Thủy
-Khá cho người Mộc
-Không lợi gì cho người Hỏa và Kim

Còn người mạng Thổ
Vậy tóm lại, Mã ở cung có hành nào, thì người nào mạng có hành đó là được hưởng.
Mã tại cung Mộc (Dần) người mạng Mộc hưởng
Mã tại cung Hỏa (Tị) người mạng Hỏa hưởng
Mã tại cung Kim (thân) người mạng Kim hưởng
Mã tại cung Thủy (Hợi) người mạng Thủy hưởng
Thế còn người mạng Thổ? Xin thưa rằng người mạng Thổ cũng hưởng được Thiên Mã ở cung Thủy (tại Hợi)

Một thí dụ
Lá số Khổng Minh, Mã ở Hợi Thủy (cung Quan). Khổng Minh mạng Mộc, cho nên không được hưởng trọn con Mã này. Nhưng Thủy dưỡng cho Mộc, nên Khổng Minh cũng chỉ được hưởng Mã một phần.

Mã ngộ Triệt và Mã ngộ Tuần
Mã gặp Triệt trấn ngay cung thì hỏng cả
Mã ngộ Tuần còn đỡ hơn.
Sau đây là kinh nghiệm đặc biệt về Mã ngộ Tuần. Sao Tuần ở những vị trí Tí Sửu Dần Mão, Thìn Tị, Ngọ Mùi, Thân Dậu, Tuất Hợi, và có thể được coi là sao đánh dấu một giai đoạn để chuyển sang giai đoạn khác.

Do đấy, nếu sao Thiên mã ngộ Tuần, chúng ta đoán thêm như sau:

1-Thiên Mã tại Hợi (Thủy) gặp Tuần ngay tại đó người mạng Mộc cũng được hưởng (thông mình, lanh lợi, học hành, công danh, tài lộc) nhưng hưởng chậm, phải gặp nhiều khó khăn lúc đầu và phải có tranh đấu cố gắng nhiều.
2-Thiên Mã tại Dần (Mộc) gặp Tuần tại đó: người mạng Hỏa cũng được hưởng nhưng chậm và có những khó khăn lúc đầu, phải cố gắng nhiều mới đạt được.
3-Thiên Mã tại Tị (Hỏa) gặp Tuần tại đó: người mạng Kim cũng được hưởng, nhưng chậm, gặp khó lúc đầu và phải cố gắng nhiều mới đạt được
4-Thiên Mã tại Thân (Kim) gặp Tuần tại đó: Người mạng Thủy và Thổ cũng được hưởng, nhưng chậm gặp khó lúc đầu và phải cố gắng nhiều mới đạt được.
Thí dụ tuổi Kỷ tị, mạng Mộc, Thiên Mã tị Hợi, gặp Tuần tại Tuất Hợi, cung Mạng cũng tại Hợi: người này cũng được hưởng Thiên Mã, nhưng hưởng chậm, lúc đầu gặp khó, phải cố gắng nhiều sau mới thành đạt.

trích (KHHB) 

Xem quan hệ xã giao theo cung Nô Bộc trong tử vi

Tử vi đẩu số đoán định cát hung họa phúc dựa vào 12 cung, trong đó cung Nô Bộc đại diện cho bạn bè, đồng nghiệp, thuộc hạ, đối tác, nói chung là quan hệ xã giao của một người. Các chủ tinh khác nhau đóng ở cung Nô Bộc sẽ mang tới những biến hóa họa phúc riêng, bạn đọc có thể tự xem cho mình theo những lý giải rất cụ thể dưới đây.

Trong tử vi, nếu cung Huynh Đệ bàn về mối quan hệ bên trong gia đình thì cung Nô Bộc chủ yếu bàn về mối quan hệ ngoại giao ngoài xã hội. Các chủ tinh có thể tọa tại cung Nô Bộc và ảnh hưởng nhiều tới cung này bao gồm: Tứ Sát, Không Kiếp, Thiên Hình, Hóa Kị, Đại Hao, Âm Sát.

Năm lưu niên ở cung Nô Bộc có cát tinh thì được thuộc hạ, bạn bè giúp đỡ, quan hệ xã giao viên mãn. Ngược lại, gặp tứ sát hình kị thì chẳng những không có ai chân tình còn bị hãm hại gây tổn thất lớn.



1. Sao Tử Vi ở cung Nô Bộc

Trường hợp này quan hệ rộng rãi, có thuộc hạ tài năng nên nhanh chóng phát tài. Bạn giao du nhiều, có duyên kết bạn với người quyền quý, được cấp dưới ủng hộ. Gặp cát tinh thì phản, thấy sát diệu sẽ bị ác nô (cấp dưới hung ác) bắt nạt, phản chủ, bạn bè nhiều nhưng vô dụng.

Gặp sát tinh, quan hệ xã giao khá căng thẳng, thêm Không Kiếp thì gặp rủi ro vì bạn bè, oán hận chồng chất, lấy oán báo ân. Thêm Lộc Tồn, tự thân bôn ba mà cấp dưới, đối tác lại gây chuyện nên dù có sự nghiệp cũng rất lao lực. Thêm Đà La, vì can thiệp vào chuyện của bạn bè mà rước phiền phức, rắc rối vào mình. Gặp Dương Nhận, Hóa Kị cùng cung thì bị phản hoặc cấp dưới không có nghĩa khí.

Tử Vi Thiên Phủ ở Dần, Thân thì nhờ sự giúp đỡ của bạn bè, mệnh có cát tinh nên vượng phát, chủ đại cát đại lợi.

Tử Vi Tham Lang ở Mão, Dậu thì bạn bè đông đảo, gặp cát tinh có trợ thủ đắc lực.

Tử Vi Thiên Tướng, bạn bè đến giúp, vô cùng cát tường, bạn đều quý và trọng nghĩa, mệnh có cát tinh thì vượng phát nhưng gặp Thất Sát thì khó điều khiển được cấp dưới.

Tử Vi Phá Quân, gặp bạn quý nhưng thiếu lực lượng, vì bạn bè mà gặp rủi ro.

2. Sao Thiên Cơ ở cung Nô Bộc

Giao lưu rộng, có các cấp độ tầng bậc bạn bè thân sơ khác nhau, phần nhiều là nhân tài hoặc tinh thông một lĩnh vực học thuật, kĩ thuật nào đó, rất năng động. Thiên Cơ nhập miếu, bạn bè thuộc hạ đắc lực; nếu hãm địa thì lại gây oán thù.

Dương Đà cùng cung, thành sự không như ý, bạn bè liên lụy, gặp tiểu nhân hãm hại, có nhiều tranh cãi. Hỏa Linh cùng cung, nhiều tranh đấu buồn bực. Không Kiếp, Đại Hao cùng cung, bại sự phần nhiều, vì bạn bè mà hao tổn tiền tài.

Thiên Cơ và Thái Âm ở Dần, Thân thì có thêm phần tốt, gặp sao Đào Hoa, Hóa Kị, Hình Sát hội hợp thì tin nhầm kẻ xấu. Thiên Cơ và Cự Môn ở Mão, Dậu ít có bạn bè trợ lực, thường lắm thị phi hoặc hiểu nhầm, bạn bè có cũng như không, một đời quan hệ xã giao chẳng ra gì.

Thiên Cơ Thiên Lương cùng cung hoặc đối cung có Thiên Lương, bạn bè nhiều nhưng biến dộng, bạn bè đắc lực, nên tìm kiếm bạn bè lớn tuổi để nâng đỡ, thêm sát thì gặp âm mưu hãm hại hoặc chiến tranh ngầm.

3. Sao Thái Dương ở cung Nô Bộc

Hiếu khách, bạn bè nhiều nhưng tri kỉ ít, bản thân cá tính phóng khoáng thích cứu tế cho người khác nhưng mình cầu người giúp đỡ thì lại không có. Trong quan hệ xã giao có hiểu lầm, lấy oán báo ân. Sao Thái Dương miếu vượng, hiểu được mọi lẽ, hãm địa thì có cũng như không, đồng sàng dị mộng. Có sát kị cùng cung hội họp, ân biến thành thù, bạn bè ruồng bỏ. Thêm Kiếp Không, bị người khác ám hại.

Thái Dương Thái Âm ở Sửu, Mùi thì bạn bè học trò đông đảo, gặp cát tinh Xương Khúc có thuộc hạ đắc lực, cát càng thêm cát, quen biết khắp thiên hạ nhưng tình cảm lúc ấm lúc lạnh. Gặp Hóa Kị thì chiêu oán thù.

Thái Dương Cự Môn hoặc tam hợp Cự Môn, tuy nhiều oán thù nhưng cũng có điểm tốt. Nhiều chuyện thị phi bủa vây, gặp Hóa Quyền Lộc thì giao du với bạn bè người nước ngoài.

Thái Dương Thiên Lương cung cung, ít bạn bè, bị cô lập. Kết bạn với người quyền quý hoặc danh nhân, ở cung Mão thì cát tường, ở cung Dậu lại không có ích.

4. Sao Vũ Khúc ở cung Nô Bộc

Nếu miếu vượng thì bạn bè đông đảo, quan hệ xã giao hài lòng, nhiều người trợ giúp nhưng nhanh đến nhanh đi, không bền. Hãm địa thì bạn bè ít. Vũ Khúc Hóa Lộc, tự thân bất an, ngày đêm bôn ba vì bạn bè, anh em mà tổn hao tinh thần.

Trang chủ  Tử vi
Hướng dẫn cách xem quan hệ xã giao theo cung Nô Bộc trong tử vi
11:46 | 16/03/2017

(Lichngaytot.com) Tử vi đẩu số đoán định cát hung họa phúc dựa vào 12 cung, trong đó cung Nô Bộc đại diện cho bạn bè, đồng nghiệp, thuộc hạ, đối tác, nói chung là quan hệ xã giao của một người. Các chủ tinh khác nhau đóng ở cung Nô Bộc sẽ mang tới những biến hóa họa phúc riêng, bạn đọc có thể tự xem cho mình theo những lý giải rất cụ thể dưới đây.



Huong dan cach xem quan he xa giao theo cung No Boc trong tu vi hinh anh

Trong tử vi, nếu cung Huynh Đệ bàn về mối quan hệ bên trong gia đình thì cung Nô Bộc chủ yếu bàn về mối quan hệ ngoại giao ngoài xã hội. Các chủ tinh có thể tọa tại cung Nô Bộc và ảnh hưởng nhiều tới cung này bao gồm: Tứ Sát, Không Kiếp, Thiên Hình, Hóa Kị, Đại Hao, Âm Sát.

Năm lưu niên ở cung Nô Bộc có cát tinh thì được thuộc hạ, bạn bè giúp đỡ, quan hệ xã giao viên mãn. Ngược lại, gặp tứ sát hình kị thì chẳng những không có ai chân tình còn bị hãm hại gây tổn thất lớn.

1. Sao Tử Vi ở cung Nô Bộc

Trường hợp này quan hệ rộng rãi, có thuộc hạ tài năng nên nhanh chóng phát tài. Bạn giao du nhiều, có duyên kết bạn với người quyền quý, được cấp dưới ủng hộ. Gặp cát tinh thì phản, thấy sát diệu sẽ bị ác nô (cấp dưới hung ác) bắt nạt, phản chủ, bạn bè nhiều nhưng vô dụng.

Gặp sát tinh, quan hệ xã giao khá căng thẳng, thêm Không Kiếp thì gặp rủi ro vì bạn bè, oán hận chồng chất, lấy oán báo ân. Thêm Lộc Tồn, tự thân bôn ba mà cấp dưới, đối tác lại gây chuyện nên dù có sự nghiệp cũng rất lao lực. Thêm Đà La, vì can thiệp vào chuyện của bạn bè mà rước phiền phức, rắc rối vào mình. Gặp Dương Nhận, Hóa Kị cùng cung thì bị phản hoặc cấp dưới không có nghĩa khí.

Tử Vi Thiên Phủ ở Dần, Thân thì nhờ sự giúp đỡ của bạn bè, mệnh có cát tinh nên vượng phát, chủ đại cát đại lợi.

Tử Vi Tham Lang ở Mão, Dậu thì bạn bè đông đảo, gặp cát tinh có trợ thủ đắc lực.

Tử Vi Thiên Tướng, bạn bè đến giúp, vô cùng cát tường, bạn đều quý và trọng nghĩa, mệnh có cát tinh thì vượng phát nhưng gặp Thất Sát thì khó điều khiển được cấp dưới.

Tử Vi Phá Quân, gặp bạn quý nhưng thiếu lực lượng, vì bạn bè mà gặp rủi ro.

2. Sao Thiên Cơ ở cung Nô Bộc

Giao lưu rộng, có các cấp độ tầng bậc bạn bè thân sơ khác nhau, phần nhiều là nhân tài hoặc tinh thông một lĩnh vực học thuật, kĩ thuật nào đó, rất năng động. Thiên Cơ nhập miếu, bạn bè thuộc hạ đắc lực; nếu hãm địa thì lại gây oán thù.

Dương Đà cùng cung, thành sự không như ý, bạn bè liên lụy, gặp tiểu nhân hãm hại, có nhiều tranh cãi. Hỏa Linh cùng cung, nhiều tranh đấu buồn bực. Không Kiếp, Đại Hao cùng cung, bại sự phần nhiều, vì bạn bè mà hao tổn tiền tài.

Thiên Cơ và Thái Âm ở Dần, Thân thì có thêm phần tốt, gặp sao Đào Hoa, Hóa Kị, Hình Sát hội hợp thì tin nhầm kẻ xấu. Thiên Cơ và Cự Môn ở Mão, Dậu ít có bạn bè trợ lực, thường lắm thị phi hoặc hiểu nhầm, bạn bè có cũng như không, một đời quan hệ xã giao chẳng ra gì.

Thiên Cơ Thiên Lương cùng cung hoặc đối cung có Thiên Lương, bạn bè nhiều nhưng biến dộng, bạn bè đắc lực, nên tìm kiếm bạn bè lớn tuổi để nâng đỡ, thêm sát thì gặp âm mưu hãm hại hoặc chiến tranh ngầm.

3. Sao Thái Dương ở cung Nô Bộc

Hiếu khách, bạn bè nhiều nhưng tri kỉ ít, bản thân cá tính phóng khoáng thích cứu tế cho người khác nhưng mình cầu người giúp đỡ thì lại không có. Trong quan hệ xã giao có hiểu lầm, lấy oán báo ân. Sao Thái Dương miếu vượng, hiểu được mọi lẽ, hãm địa thì có cũng như không, đồng sàng dị mộng. Có sát kị cùng cung hội họp, ân biến thành thù, bạn bè ruồng bỏ. Thêm Kiếp Không, bị người khác ám hại.

Thái Dương Thái Âm ở Sửu, Mùi thì bạn bè học trò đông đảo, gặp cát tinh Xương Khúc có thuộc hạ đắc lực, cát càng thêm cát, quen biết khắp thiên hạ nhưng tình cảm lúc ấm lúc lạnh. Gặp Hóa Kị thì chiêu oán thù.

Thái Dương Cự Môn hoặc tam hợp Cự Môn, tuy nhiều oán thù nhưng cũng có điểm tốt. Nhiều chuyện thị phi bủa vây, gặp Hóa Quyền Lộc thì giao du với bạn bè người nước ngoài.

Thái Dương Thiên Lương cung cung, ít bạn bè, bị cô lập. Kết bạn với người quyền quý hoặc danh nhân, ở cung Mão thì cát tường, ở cung Dậu lại không có ích.

4. Sao Vũ Khúc ở cung Nô Bộc

Nếu miếu vượng thì bạn bè đông đảo, quan hệ xã giao hài lòng, nhiều người trợ giúp nhưng nhanh đến nhanh đi, không bền. Hãm địa thì bạn bè ít. Vũ Khúc Hóa Lộc, tự thân bất an, ngày đêm bôn ba vì bạn bè, anh em mà tổn hao tinh thần.



Vũ Khúc Hóa Kị, gặp tiểu nhân, bị bạn bè hãm hại hoặc vì sai lầm của cấp dưới mà buồn phiền, dễ bị lừa. Thêm tứ Sát vì quan hệ không ra gì. Thêm Không Kiếp, vì tiền tài mà bỏ bạn, từ thân thành thù.

Vũ Khúc Thiên Phủ ở Tý, Ngọ thì bạn bè đông đảo lại hữu dụng, nhờ bạn mà vượng phát.

Vũ Khúc Tham Lang ở Sửu, Mùi thì bạn đông nhưng vô dụng, chủ yếu là bạn rượu thịt chứ không có chân tình. Thêm Tứ Sát hóa kị, bị người ta liên lụy, hay tranh cãi hoặc vì tài lộc mà đấu đá.

Vũ Khúc Thiên Tướng ở Dần, Thân có nhiều bạn và hữu dụng, nhờ giúp đỡ nên tốt đẹp.

Vũ Khúc Thất Sát ở Mão Dậu, ác nô bắt nạt chủ, bạn bè nhiều nhưng bị phản bội, bán rẻ. Thêm Hỏa Tinh hoặc Kình Dương, bị bạn bè qua mặt. Thêm Sát thì vì bạn bè mà phá sản, tiêu tan sự nghiệp.

Vũ Khúc Phá Quân ở Tị, Hợi thì bạn bè, cấp dưới nói một đằng làm một nẻo, lừa dối phản bội, biến ân thành oán. Thêm Tứ Sát, Đại Hao tất có tổn thất to lớn.

5. Sao Thiên Đồng ở cung Nô Bộc

Thiên Đồng miếu vượng có bạn bè, thuộc hạ quy thuận giúp đỡ, đông đảo lại đắc lực, tình nguyện vui vẻ, quan hệ xã hội khá hài lòng và giao du với khắp nơi, đủ loại người. Thiên Đồng hãm địa lại không đẹp, thêm Dương Đà thì lúc tụ lúc tán, bạn bè chỉ thêm liên lụy, bị cấp dưới bất nghĩa hãm hại. Thêm Hỏa Linh thì vì bạn bè mà giận dỗi. Thêm Không Kiếp, dễ gặp bại sự. Thêm Đại Hao, có rủi ro, tổn thất không nhỏ.

Thiên Đồng Thái Âm ở Tý, Ngọ thì bạn đông và tốt, có thể có người tri giao, khí chất tương hợp.

Thiên Đồng Cự Môn ở Sửu, Mùi thì bạn bè anh em không đồng lắm, nói nhiều, tính không thật thà, có phân tranh dễ bị hiểu lầm mà thành đối nghịch, thù hận.

Thiên Đồng Thiên Lương ở Dần, Thân có bạn bè đắc lực, cát tinh cao chiếu nên gặp bạn thân, người có thể khuyên giải, hợp tác, cùng nhau tiến lên.

6. Sao Liêm Trinh ở cung Nô Bộc

Liêm Trinh Thiên Phủ ở Thìn, Tuất, bạn bè đông đảo mà đắc lực, thêm Sát thì bị hại do bạn xấu.

Liêm Trinh Tham Lang ở Tị Hợi, bạn bè và tửu sắc cùng đánh cược, có Hàm Trì, Đại Hao là cực xấu. Hóa Kị thêm Sát, bị bạn bè liên lụy, có tiểu nhân nịnh bộ, đẩy lỗi cho.

Liêm Trinh Thiên Tướng ở Tý, Ngọ, từ nhỏ đã bất lợi, về già cũng không yên.

Liêm Trinh Thất Sát ở Sửu, Mùi, kết bạn nôn nóng hung hãn nên gặp tổn hại.

Liêm Trinh Phá Quân ở Mão Dậu, bạn bè thuộc hạ đều dựa vào mình, thêm Tứ Sát ắt gặp tổn hại. Vũ Khúc có tiểu nhân nịnh bợ, bị bắt nạt, nói dối, liên luỵ.

7. Sao Thiên Phủ ở cung Nô Bộc

Giao tiếp thận trọng, bạn bè rộng rãi nhưng thiếu tri kỉ. Ở cung Tị, Hợi sẽ bị đồng nghiệp, cấp dưới kết bè hãm hại. Gặp Hóa Lộc, Hóa Quyền, Hóa Khoa, Tả Phụ, Hữu Bật thì được ủng hộ, đại cát đại lợi, như hổ thêm cánh, Gặp Không Kiếp, Đại Hao vì bạn mà tốn tiền, cấp dưới trộm cắp. Gặp Tứ Sát, Thiên Hình lấy oán báo ân, bạn bè âm mưu xấu gây hao tổn.

8. Sao Thái Âm ở cung Nô Bộc

Bạn bé khác phái nhiều. Miếu vượng là tốt, nhiều người đắc lực, chủ yếu bạn khác giới và nhiều bạn tốt. Hãm địa là hung, có cũng như không, bạn bè bạc tình bạc nghĩa, nhiều bạn xấu. Thêm Không Kiếp, Đại Hao, vì bạn mà tổn thương. Thêm Dương Đà, lấy oán báo ân. Thêm Hỏa Linh, bị ruồng bỏ, vì bạn bè mà lao lực. Thêm Thiên Hình, bì bạn bè gây áp lực, uy hiếp. Thêm Không Kiếp, bị bạn bè tính toán sau lưng.

9. Sao Tham Lang ở cung Nô Bộc

Giao lưu nhiều, phú quý nghèo hèn đều có nhưng thiếu người tri tâm. Bạn bè cờ bạc tửu sắc, không phải người lương thiện, cấu kết với lưu manh xã hội đen. Khi còn trẻ khó chiêu dụ thuộc hạ, vô dụng nhưng cao tuổi lại tốt hơn. Có cát tinh Khôi Việt Khoa Quyền Lộc thì được coi trọng kính ngưỡng, được hoan nghênh ủng hộ.

Thêm Tứ Sát Không Kiếp, bị người ám hại. Gặp Đà La, Thiên Diêu, Âm Sát, Đại Hao, bạn bè rượu thịt, không thật lòng.

10. Sao Cự Môn ở cung Nô Bộc

Không phải điềm lành, tranh luận với bạn bè gây thị phi, xung đột. Nhập miếu, ngày trẻ thu thập thuộc hạ không hữu dụng, đến khi về già mới nên dùng. Thêm Lộc Quyền sẽ cát diệu, nhờ bạn tốt mà gây dựng sự nghiệp. Thêm Hóa Kị, bạn bè không giúp đỡ, chỉ giỏi tranh cãi.

Thêm sát tinh, nhiều cãi cọ, một đời gặp tiểu nhân, ở sau lưng tính toán hãm hại. Thêm Không Kiếp, Đại Hao, Âm Sát cùng cung thì hao tổn nhiều, cấp dưới trộm cướp.

11. Sao Thiên Tướng ở cung Nô Bộc

Miếu vượng thì thuộc hạ trung thành, đông và tốt. Ở cung Mão, Dậu có nhiều bạn bè giúp đỡ. Gặp cát tinh Khoa Quyền Lộc, giao lưu rộng, nhờ quen biết để lập nghiệp. Thêm Tứ Sát Thiên Hình, nhiều tán ít tụ, nhiều tranh chấp bất hòa, gặp tai họa, đa số bằng hữu gây họa cho mình. Thêm Không Kiếp, Đại Hao thì bạn bè ruồng bỏ.

12. Sao Thiên Lương ở cung Nô Bộc

Bình thường có nhiều bạn bè và đắc lực, gặp cát tinh là sẽ càng tốt. Hãm địa, bạn bè có cũng như không. Thêm Khôi Việt Khoa Quyền Lộc, bạn bè chính trực, nhiều lợi ích, thêm thuộc hạ ủng hộ. Có Tứ Sát, Không Kiếp, chủ yếu tốn tiền, tranh cãi, bị ám hại ngầm.

13. Sao Thất Sát ở cung Nô Bộc

Không phải điềm lành, ít có tri giao, thuộc hạ khó điều khiển. Chủ yếu giao du với người hiếu thắng, bạo lực hoặc lưu manh nên bị bạn bè liên lụy hoặc tiểu nhân đố kị, thuộc hạ trộm cắp. Bạn bè càng nhiều càng phiền phức, kết phường bất lợi, gặp tổn hại. Nhập miếu hơi tốt, thêm Lộc Tồn thì tiểu nhân ở bên. Thêm Tứ Sát, Không Kiếp, lấy oán trả ơn, phản ân thành thù.

14. Sao Phá Quân ở cung Nô Bộc

Một đời tiểu nhân hãm hại, vì bạn bè mà phá sản hoặc cấp dưới bất trung, mất hết tiền của, gặp cảnh nghèo khó, kết giao với lưu manh. Tứ Sát, Không Kiếp, Thiên Hình, Âm Sát, Kiếp Sát, Đại Hao cùng cung sẽ không quá may, vì bạn bè mà tai bay vạ gió, thuộc hạ trộm cắp.

15. Sao Văn Xương, Văn Khúc ở cung Nô Bộc

Nhập miếu hoặc cùng cung, có thuộc hạ bạn bè đông và đắc lực, quan hệ xã giao hài hòa, kết giao với người lịch sự. Xương Khúc độc thủ miếu vượng cũng tốt, hãm địa thêm Tứ Sát Không Kiếp thì bị ruồng bỏ.

16. Sao Tả Phụ, Hữu Bất ở cung Nô Bộc

Độc thủ, bạn bè nhiều và tốt, quan hệ hài lòng, nhiều người trung thành. Thêm Tứ Sát Không Kiếp bị ruồng bỏ, có cũng như không.

17. Sao Thiên Khôi, Thiên Việt, Hóa Lộc, Hóa Quyền, Hóa Khoa

Chủ thuộc hạ đắc lực, quan hệ tốt đẹp, cát tinh cao chiếu càng thêm tốt, gặp Tứ Sát Không Kiếp bạc tình bạc nghĩa, bị bạn bè cấp dưới ruồng bỏ, hãm hại.

18. Sao Lộc Tổn ở cung Nô Bộc

Bản thân gian lao nhưng quan hệ xã giao tốt, kết bạn với người giàu, nhận được giúp đỡ từ cấp dưới nên dễ làm giàu hoặc được viện trợ kinh tế.

19. Sao Kình Dương, Đà La, Hoả Tinh, Tinh Tinh, Địa Kiếp, Thiên Không ở cung Nô Bộc

Không phải điềm lành, nhập miếu thì dù có cát tinh cũng chủ không may, nhiều tiểu nhân, tổn hại, tranh cãi, bị phản bội. Mệnh có cát tinh ít nhiều được nâng đỡ.

Tìm hiểu về 60 long thấu địa

60 Long Thấu Địa dùng để làm gì ? Tam hợp 60 thấu địa long dùng xem lai long nhập mạch :

Tam hợp 60 thấu địa long dùng xem lai long nhập mạch. 24 sơn chia làm 12 phân vị, cứ 2 cung liền nhau làm 1 phân vị bắt đầu từ Nhâm, mỗi phân vị 30 độ chia ra 5 phần, mỗi phần 6 độ, như vậy mỗi phân vị 2 cung quản 5 long, 12 phân vị quản 60 long.
5 long tại phân vị Nhâm Tý: Giáp Tý, Bính tý, Mậu tý, Canh tý, Nhâm tý.
5 long tại phân vị Quý Sửu: Ất sửu, Đinh sửu, Kỷ sửu, Tân sửu, Quý sửu.
5 long tại phân vị Cấn Dần: Bính dần, Mậu dần, Canh dần, Nhâm dần, Giáp dần.
5 long tại phân vị Giáp Mão: Đinh mão, Kỷ mão, Tân mão, Quý mão, Ất mão.


Các phân vị còn lại cũng bố trí như trên theo quy luật: số can sẽ thuận theo thứ tự Giáp Ất Bính Đinh Mậu Kỷ Canh Tân Nhâm Quý, hết một vòng lại quay lại. Chi thì theo chi tại cung vị đó. Như vậy Giáp tý khởi đầu ở Nhâm Tý, đến Ất sửu khởi đầu ở Quý Sửu, đến Bính dần khởi đầu ở Cấn Dần… đến Càn Hợi là Ất hợi. Đây là vòng Giáp tý.
Lại đến Bính tý khởi vòng 2 Nhâm Tý, đến Đinh sửu khởi vòng 2 Quý Sửu, đến Mậu dần khởi vòng 2 Cấn Dần… đến Càn Hợi là Đinh hợi. Đây là vòng Bính tý.
Đến Mậu tý khởi vòng 3 Nhâm Tý, đến Kỷ sửu khởi vòng 3 Quý Sửu, đến Canh dần khởi vòng 3 Cấn Dần… đến Càn Hợi là Kỷ hợi. Đây là vòng Mậu tý.
Đến Canh tý khởi vòng 4 Nhâm Tý, đến Tân sửu khởi vòng 4 Quý Sửu, đến Nhâm dần khởi vòng 4 Cấn Dần… đến Càn Hợi là Tân hợi. Đây là vòng Canh tý.
Đến Nhâm tý khởi vòng cuối Nhâm Tý, đến Quý sửu khởi vòng cuối Quý Sửu, đến Giáp dần khởi vòng cuối Cấn Dần… đến Càn Hợi là Quý hợi. Đây là vòng Nhâm tý.

Vòng Giáp tý là Cô bại khí
Vòng Nhâm tý là Hư bại khí
(Vì Càn Khôn rút quẻ thể thì trên dưới chỉ còn thuần dương, thuần âm)
Vòng Mậu tý là Sát diệu không vong tuyệt khí
(Vì Khảm Ly rút quẻ thể thì trên dưới còn lại tuyệt giao)
Vòng Bính tý là Vượng khí
Vòng Canh tý là Tướng khí
(Vì Cấn Tốn Đoài Chấn rút quẻ thể thì trên dưới âm dương giao cấu)

Phân kim chỉ nên chọn Vượng và Tướng. Tránh Cô và Hư vì dù là huyệt tốt lâu ngày sẽ Tuyệt tự. Tránh sát diệu không vong vì sát khí mạnh.
Như vậy cũng như 72 long xuyên sơn, 60 long thấu địa thực chất chỉ có 24 long của vòng Bính tý và Canh tý là tốt mà thôi, 36 long còn lại là bại tuyệt cả.
Địa bàn vốn 12 chi: Tý, Sửu, Dần, Mão, Thìn, Tỵ, Ngọ, Mùi, Thân, Dậu, Tuất, Hợi. Tý Ngọ Mão Dậu là 4 ngôi chính, Dần Thân Tỵ Hợi là nơi trường sinh của ngũ hành, Thìn Tuất Sửu Mùi là nơi hưu cữu của ngũ hành. Do đó dùng 12 chi thì chi nào cũng là chân chính. Chỉ vì 12 chi có âm có dương ngay trong đó nên khó dùng, do vậy phải gia thêm thiên can Giáp, Ất, Bính, Đinh, Mậu, Kỷ, Canh, Tân, Nhâm, Quý trong đó Mậu, Kỷ tại trung cung nên không dùng; gia thêm 8 phương Càn, Khôn, Cấn, Tốn, Chấn, Đoài, Khảm, Ly trong đó Chấn, Đoài, Khảm, Ly trùng với Mão, Dậu, Tý, Ngọ nên 4 quẻ này tàng chứa ngay trong đó. Cộng lại chỉ dùng 12 chi 8 thiên can và 4 duy Càn Khôn Cấn Tốn hình thành 24 sơn.
Vì 8 thiên can và 4 duy dùng phân chia khí quẻ nên điểm giữa của Giáp Ất Bính Đinh Canh Tân Nhâm Quý Càn Khôn Cấn Tốn khí quẻ rất cứng rắn khó xuyên qua nên gọi quy giáp không vong hay là Đại không vong dùng thì đại hung.
Lằn ranh giới giữa 24 sơn vì là nơi phân âm phân dương của khí quẻ nên khí tại đây rất hỗn tạp, nên gọi Tiểu không vong, dùng thì hung.

Khôn Nhâm Ất Thìn là quẻ Cấn
Cấn Bính Tân Tuất là quẻ Đoài
Tý Mão Mùi Tỵ là quẻ Khảm
Ngọ Dậu Sửu Hợi là quẻ Ly
Giáp Quý Thân Tốn là quẻ Chấn
Dần Đinh Canh Tân là quẻ Tốn
Nói không xuất quái là Long, Hướng, Sa, Thuỷ đều thuộc về một quái như trên. Nếu không thuộc về một quái như trên thì gọi là xuất quái. Lập tinh bàn ví dụ như sơn Quý hướng Đinh kiêm lấy Sửu Mùi thì chỉ đơn thuần là kiêm hướng, không phải là kiêm quẻ xuất quái.

Tìm Hiểu Thế Quái Kiêm Hướng của Huyền Không Phi Tinh

Khi lập tinh bàn (hay trạch vận) của 1 căn nhà thì người ta thường hay gặp phải những căn nhà không thuần hướng (hay chính hướng, tức là hướng nhà nằm tại tâm điểm của 1 trong 24 hướng), mà lại lệch sang bên phải hoặc bên trái. Những trường hợp này còn được gọi là kiêm hướng.

Đối với Huyền không phái, nếu những căn nhà (hay phần mộ) tuy bị kiêm hướng, nhưng nếu kiêm dưới 3 độ thì vẫn có thể áp dụng phương pháp lập tinh bàn như bình thường, tức là vẫn lấy những vận tinh tới tọa và hướng, rồi tùy Tam nguyên long của nó là dương hay âm mà xoay chuyển thuận hay nghịch mà thôi. Nhưng nếu một khi mà hướng của căn nhà (hay ngôi mộ) đó kiêm quá 3 độ so với tâm của chính hướng (dù là kiêm sang bên phải hay bên trái) thì cần phải dùng Thế quái (hay số thay thế). Cho nên Thế quái thật ra chỉ là phương pháp dùng số thế cho những trường hợp kiêm hướng nhiều (trên 3 độ).



Tưởng đại Hồng, một danh sư Phong thủy Huyền không dưới thời nhà Minh đã từng nói: “ Xử dụng phép kiêm hướng thì cần phải dùng bí quyết KHÔN-NHÂM-ẤT”. Nhưng bí quyết KHÔN-NHÂM-ẤT là gì? Nó chính là 4 câu khẩu quyết trong “Thanh nang áo Ngữ” mà Dương quân Tùng đã viết để nói về cách dùng Thế quái như sau:

KHÔN-NHÂM-ẤT, Cự môn tòng đầu xuất,
CẤN-BÍNH-TÂN, vị vị thị Phá Quân,
TỐN-THÌN-HỢI, tận thị Vũ Khúc vị,
GIÁP-QUÝ-THÂN, Tham Lang nhất lộ hành.

Có nghĩa là:

-Với 3 hướng KHÔN-NHÂM-ẤT (xin coi lại phần 24 sơn hướng và TAM NGUYÊN LONG) thì dùng sao Cự môn (tức số 2) khởi đầu (tức nhập trung cung rồi xoay chuyển thuận, nghịch).

-Với 3 hướng CẤN-BÍNH-TÂN thì vị trí nào cũng dùng sao Phá Quân (tức số 7) nhập trung cung thay thế.

-Với 3 hướng TỐN-THÌN-HỢI thì dùng sao Vũ Khúc (tức số 6) nhập trung cung thay thế.

-Với 3 hướng GIÁP-QUÝ-THÂN thì dùng sao Tham Lang (tức số 1) nhập trung cung thay thế.

Lấy thí dụ như nhà hướng 185 độ tức là tọa TÝ hướng NGỌ kiêm QUÝ-ĐINH 5 độ, nhà xây và vào ở trong vận 8, nên khi an vận bàn thì có số 3 đến hướng, số 4 đến tọa. Vì kiêm quá 3 độ nên khi an sơn bàn thì không thể lấy số 4 nhập trung cung, nhưng vì số 4 có 3 sơn là THÌN-TỐN-TỴ, đem áp đặt lên phương tọa của căn nhà thì thấy sơn TỐN của số 4 trùng với tọa (tức sơn TÝ) của căn nhà này. Mà theo khẩu quyết của Dương quân Tùng thì nếu sơn TỐN kiêm độ thì phải dùng sao Vũ Khúc tức số 6 thay thế. Do đó khi lập sơn bàn thì phải lấy số 6 nhập trung cung (thay vì số 4). Kế đó mới xét vì TỐN là dương trong TAM NGUYÊN LONG, nên đem 6 vào trung cung rồi xoay theo chiều thuận là 7 tới TÂY BẮC, 8 tới TÂY, 9 tới ĐÔNG BẮC... để có được sơn bàn cho căn nhà này.

Tuy nhiên, vì trên la kinh có tới 24 sơn, trong khi khẩu quyết của Dương quân Tùng chỉ đưa ra 12 sơn trong trường hợp bị kiêm hướng, tức là ông chỉ biên ra có một nửa, còn một nửa không nhắc đến mà chỉ truyền khẩu cho hậu thế. Vì vậy, người nào được truyền đều tự cho là gia bảo, là “bí mật của mọi bí mật” của Phong thủy Huyền Không. Đến cuối đời nhà Minh, khi Khương Diêu đưa cho Tưởng đại Hồng hai ngàn lượng bạc để Tưởng đại Hồng mai táng cho cha, ông mới được họ Tưởng truyền hết khẩu quyết. Nhưng Khương Diêu cũng dấu kín bí mật này, nên không ai có thể biết hay hiểu được những khẩu quyết của Dương quân Tùng, trừ khi được chân truyền mà thôi. Mãi đến cuối đời nhà Thanh, danh sư Chương trọng Sơn được đích truyền của Huyền không phái mới biên sách để truyền lại cho con cháu, trong đó có nói đến cách dùng Thế quái. Việc này đến tai Thẩm trúc Nhưng, lúc đó cũng đang cố công tìm kiếm, học hỏi về Huyền KHông. Ông bèn bỏ ra một ngàn lạng bạc mượn sách của Chương trọng Sơn trong 1 đêm để ghi chép hết lại. Nhờ vậy mà ông mới biết hết bí quyết của Thế quái mà đặt ra bài “Thế quái ca quyết” sau đây:

"TÝ, QUÝ tịnh GIÁP, THÂN, Tham Lang nhất lộ hành,
NHÂM, MÃO, ẤT, MÙI, KHÔN, ngũ vị vi Cự Môn,
CÀN, HỢI, THÌN, TỐN, TỴ, liên TUẤT Vũ Khúc danh,
DẬU, TÂN, SỬU, CẤN, BÍNH, thiên tinh thuyết Phá Quân,
DẦN, NGỌ, CANH, ĐINH thượng, Hữu Bật tứ tinh lâm,
Bản sơn tinh tác chủ, phiên hướng trục hào hành,
Liêm Trinh quy ngũ vị, chư tinh thuận, nghịch luân,
Hung, cát tùy thời chuyển, Tham-Phụ bất đồng luận,
Tiện hữu tiên hiền quyết, không vị kỵ lưu thần,
Phiên hướng phi lâm BÍNH, thủy khẩu bất nghi ĐINH,
Vận thế tinh bất cát, họa khởi chí diệt môn,
Vận vượng tinh cách hợp, bách phúc hựu thiên trinh,
Suy, vượng đa bằng thủy, quyền ngự giá tại tinh,
Thủy kiêm tinh cộng đoán, diệu dụng cánh thông linh."

Tạm dịch:

TÝ, QUÝ cùng GIÁP, THÂN, đi 1 đường với Tham Lang (số 1),
NHÂM, MÃO, ẤT, MÙI, KHÔN, 5 vị trí dùng sao Cự Môn (số 2),
CÀN, HỢI, THÌN, TỐN, TỴ, TUẤT liên tiếp dùng sao Vũ Khúc (số 6),
DẬU, TÂN, SỬU, CẤN, BÍNH là những vị trí của sao Phá Quân (số 7),
DẦN, NGỌ, CANH, ĐINH sẽ được sao Hữu Bật bay tới (số 9),
Sao của bản sơn làm chủ, sao của hướng vận hành,
Liêm Trinh (số 5) mà tới 5 vị trí này thì phải tính sự thuận, nghịch của các sao.
Hung, cát chuyển vận tùy theo thời, Tham-phụ sẽ di chuyển trái ngược nhau,
Theo khẩu quyết của tiên hiền, phải xa lánh tuyến vị Không vong,
Nếu hướng tinh không ở vị trí BÍNH, thì thủy khẩu không thể ở vị trí ĐINH.
Gặp lúc thế tinh xấu có thể làm tan cửa nát nhà,
Lúc thế tinh là vượng tinh thì trăm điều lành sẽ tới,
Suy hay vượng là căn cứ vào thủy, quyền hành đều do sao quyết định,
Hợp thủy với sao mà đoán là cách hay nhất để đoán biết mọi việc.

Dựa vào bài “Thế quái ca quyết” đó của Thẩm trúc Nhưng, chúng ta có thể tóm lược lại như sau:

- TÝ, QUÝ, GIÁP, THÂN dùng số 1 nhập trung.
- KHÔN, NHÂM, ẤT, MÃO, MÙI dùng số 2 nhập trung.
- TUẤT, CÀN, HỢI, THÌN, TỐN, TỴ dùng số 6 nhập trung.
- CẤN, BÍNH, TÂN, DẬU, SỬU dùng số 7 nhập trung.
- DẦN, NGỌ, CANH, ĐINH dùng số 9 nhập trung.

Tuy nhiên nếu để ý kỹ thì ta sẽ thấy trong 24 sơn thì chỉ có 13 sơn là dùng Thế quái, còn lại 11 sơn không dùng, cụ thể là:

- Cung KHẢM “NHÂM-TÝ-QUÝ” thuộc Nhất Bạch (Tham Lang), trừ NHÂM dùng Thế quái thành Nhị Hắc (Cự Môn), TÝ-QUÝ vẫn dùng Nhất bạch, tức không dùng Thế quái.

- Cung KHÔN “MÙI-KHÔN-THÂN” thuộc Nhị Hắc (Cự Môn), trừ THÂN dùng Thế quái thành Nhất Bạch (Tham Lang), MÙI-KHÔN vẫn dùng Nhị Hắc, tức không dùng Thế quái.

- Cung CHẤN “GIÁP-MÃO-ẤT” thuộc Tam Bích (Lộc Tồn), nhưng GIÁP dùng Nhất Bạch làm Thế Quái, còn MÃO-ẤT thì dùng Nhị Hắc làm Thế quái.

- Cung TỐN “THÌN-TỐN-TỴ” thuộc Tứ Lục (Văn Khúc), nhưng cả 3 đều dùng Lục Bạch (Vũ Khúc) làm Thế quái.

- Cung CÀN “TUẤT-CÀN-HỢI” thuộc Lục bạch (Vũ Khúc), nhưng cả 3 đều dùng Lục Bạch tức không dùng Thế quái.

- Cung ĐOÀI “CANH-DẬU-TÂN” thuộc Thất Xích (Phá Quân), trừ CANH dùng Cửu Tử (Hữu Bật) làm Thế quái, còn DẬU-TÂN vẫn dùng Thất Xích (Phá Quân), nên không dùng Thế quái.

- Cung CẤN “SỬU-CẤN-DẦN” thuộc Bát Bạch (Tả Phù), nhưng SỬU-CẤN dùng Thất Xích (Phá Quân) làm Thế quái, còn DẦN dùng Cửu Tử (Hữu Bật) làm Thế quái.

- Cung LY “BÍNH-NGỌ-ĐINH” thuộc Cửu Tử (Hữu Bật), trừ BÍNH dùng Thất Xích (Phá Quân) làm Thế quái, còn NGỌ-ĐINH vẫn dùng Cửu Tử (Hữu Bật) tức không dùng Thế quái.

Cho nên với bài “Thế quái ca quyết” của Thẩm trúc Nhưng, chúng ta có thể biết sơn nào (trong 24 sơn) có thể dùng Thế quái. Do đó, trở về với thí dụ ở trên, nhà hướng 185 độ (tức tọa TÝ hướng NGỌ kiêm QUÝ-ĐINH 5 độ), nhập trạch trong Vận 8 nên có Vận tinh số 3 tới phía trước (hướng). Nếu chỉ dựa vào 4 câu khẩu quyết của Dương quân Tùng trong “Thanh nang Áo Ngữ” thì chúng ta không biết Vận tinh này có thể dùng Thế quái hay không. Nhưng với bài “Thế quái ca quyết” thì chúng ta thấy số 3 gồm có 3 sơn là GIÁP-MÃO-ẤT, nếu đem áp đặt lên 3 sơn BÍNH-NGỌ-ĐINH nơi đầu hướng của căn nhà này thì sẽ thấy sơn MÃO của số 3 trùng với Hướng (tức sơn NGỌ) của căn nhà. Theo ca quyết thì sơn MÃO dùng Nhị Hắc làm Thế quái, nên lấy số 2 (tức sao Nhị Hắc) nhập trung cung. Vì MÃO thuộc âm (trong Tam nguyên Long), cho nên lấy số 2 nhập trung cung rồi xoay theo chiều “Nghịch” , tức 1 tới TÂY BẮC, 9 tới TÂY, 8 tới ĐÔNG BẮC... Cũng chính vì điều này mà trong ca quyết mới có câu “sao của bản sơn làm chủ, sao của hướng vận hành”. Chữ “làm chủ” ở đây có nghĩa là quyết định sự di chuyển Thuận hay Nghịch, còn “sao của hướng” tức là Thế quái vận hành.




Một trường hợp khác là khi an vận bàn thì vận tinh số 5 sẽ đến tọa hay hướng của 1 căn nhà. Vì số 5 không có phương hướng, cũng không có Thế quái, cho nên khi gặp những trường hợp này thì chỉ cần coi xem phương tọa hay hướng của căn nhà thuộc sơn gì, và là dương hay âm trong Tam nguyên long, rồi vẫn lấy số 5 nhập trung cung mà xoay chuyển THUẬN hay NGHỊCH theo với sơn tọa hoặc hướng của căn nhà mà thôi. Lấy thí dụ như nhà hướng 185 độ tức là tọa TÝ hướng NGỌ kiêm ĐINH-QUÝ 5 độ, xây xong và vào ở trong vận 1. Nếu an Vận bàn thì lấy số 1 nhập trung cung, xoay theo chiều thuận thì 2 đến TÂY BẮC, 3 đến TÂY, 4 đến ĐÔNG BẮC, 5 đến NAM... Vì nhà này kiêm hướng, nhưng do 5 không có Thế quái, cũng không có phương hướng, nên vẫn dùng hướng chính của căn nhà là hướng NGỌ, thuộc âm trong Tam nguyên Long, nên vẫn lấy số 5 nhập trung cung xoay NGHỊCH mà an Hướng bàn cho căn nhà này.

Một điểm quan trọng khác là có những căn nhà tuy kiêm hướng nhiều, nhưng những vận tinh tới tọa và hướng đều không dùng Thế quái. Về vấn đề này thì nhiều nhà Phong thủy cho là cách cục không tốt, nên dù nhà có đắc vượng tinh tới hướng cũng vẫn có tai họa. Họ cho rằng vì nhà đã kiêm hướng tức là cần phải có Thế quái, nếu như không có thì dù có đắc vượng tinh tới hướng cũng chỉ là miễn cưỡng, hoặc vượng tinh không có đủ uy lực phù trợ cho căn nhà đó. Nhưng qua thực tế kiểm chứng thì lại thấy những nhà này vẫn phát phúc, công việc và tài lộc của người sống trong nhà vẫn tốt đẹp. Điều này có thể dẫn đến kết luận là dù nhà kiêm hướng, nhưng nếu không có Thế quái mà đắc vượng tinh tới hướng cũng vẫn tốt đẹp như những nhà đắc vượng tinh khác mà thôi. Lấy thí dụ như nhà hướng 320 độ, tức tọa TỐN hướng CÀN kiêm TỴ-HỢI 5 độ, xây và vào ở trong vận 8. Nếu lập Vận bàn thì 8 nhập trung cung, 9 tới TÂY BẮC tức hướng nhà. Bây giờ nếu muốn an Hướng bàn thì trước tiên xem hướng nhà trùng với sơn nào của số 9. Vì nhà hướng CÀN, trùng với sơn NGỌ của số 9. Mà theo bài “Thế quái ca quyết” thì NGỌ vẫn dùng Cửu Tử (tức số 9), tức là không dùng Thế quái. Vì NGỌ thuộc âm trong Tam nguyên Long nên lấy số 9 nhập trung cung xoay NGHỊCH thì 8 đến TÂY BẮC tức đến hướng. Vì đang trong vận 8 mà được hướng tinh 8 tới Hướng nên nhà này thuộc cách đắc vượng tinh tới hướng. Đây là 1 cách tốt, mặc dù là nhà kiêm hướng nhiều mà vẫn không có Thế quái để dùng.

Vấn đề Quân Bình Thủy - Hỏa trong Phong Thủy

1/ Từ Tiên thiên tới Hậu thiên Bát quái:

Biết rằng vũ trụ lúc ban đầu chỉ là 1 khoảng trống vô hình, đến khi có Trời-Đất xuất hiện rồi mới hình thành mọi hiện tượng như ngày, đêm, sấm chớp, gió mưa mà tạo nên đồi núi, sông, hồ...

Cho nên Tiên thiên Bát quái do Phục Hy đặt ra mới xếp quẻ CÀN (Trời) ở phía trên, quẻ KHÔN (Đất) ở phía dưới, ngụ ý lấy Trời-Đất là chủ tể của vũ trụ, rồi bên trên mới phát sinh ra gió (TỐN) và mưa (ĐOÀI), bên dưới xuất hiện sấm (CHẤN) và núi (CẤN).
Mặt trời mọc ở phía ĐÔNG nên xếp quẻ LY (Hỏa) ở đó, còn thủy nguồn từ phía TÂY chảy đến, nên là phương vị của quẻ KHẢM. Chính vì vậy nên Tiên thiên Bát quái còn được coi là quy luật vận hành và biến chuyển của vũ trụ, với Trời-Đất đứng giữa theo thứ tự trên, dưới mà phát sinh cũng như điều hành mọi sự.


Sau khi Trời-Đất đã hình thành, gió, mưa, sấm chớp, núi non, nước, lửa đều đã có thì lại xảy ra sự tương tác giữa 2 thế lực đối nghịch Thủy-Hỏa mà làm nảy sinh ra sự sống. Tuy rằng từ trong Thủy thì sự sống đã phôi phai hình thành, nhưng phải nhờ sức ấm của Hỏa thì sự sống mới có thể được duy trì, tồn tại và phát triển. Chính vì vậy mà Văn Vương nhà Chu (khoảng hơn 1,000 năm B.C) khi đặt ra Hậu thiên Bát quái mới xếp 2 quẻ KHẢM (Thủy) – Ly (Hỏa) vào thay thế vị trí của CÀN-KHÔN để điều khiển Ngũ hành mà làm nảy sinh cũng như duy trì sự sống trên trái đất theo 1 quy luật tương sinh theo chiều thuận (tức chiều kim đồng hồ) là Thủy sinh Mộc, Mộc sinh Hỏa, Hỏa sinh Thổ, Thổ sinh Kim rồi Kim sinh Thủy là trở lại từ đầu. Tức là từ Thủy mới có thể phát sinh ra vạn vật, rồi nhờ sức Hỏa mà giúp cho vạn vật được tăng trưởng mạnh mẽ. Cho nên mới nói “Thủy là nguồn của vạn vật, Hỏa là cha của vạn vật”. Nếu không có Thủy thì sự sống không thể phát sinh, không có Hỏa thì sự sống không thể hình thành. Và sự tương tác giữa Thủy-Hỏa chính là đầu mối phát sinh và phát triển của vạn vật cũng như sự sống trên trái đất.

Sự ra đời của Hậu thiên Bát quái là 1 bước tiến quan trọng và vượt bực của nền văn minh và khoa học Đông phương. Đi cùng với Tiên thiên Bát quái, nó đã tóm gọn tất cả một giai đoạn biến hóa, hình thành của vũ trụ từ vô hình cho đến lúc sự sống được hình thành và hiện hữu trên mặt đất. Nếu nói Tiên thiên là quy luật biến hóa của Trời-Đất thì Hậu thiên chính là quy luật biến hóa của sự sống. Nếu trong vũ trụ lấy Trời (CÀN)-Đất (KHÔN) làm chủ, thì trong sự sống phải lấy Thủy-Hỏa đứng đầu. Đây là 1 yếu tố cực kỳ quan trọng, là nền tảng cho nhiều ngành triết lý và khoa học Đông phương, kể cả Đông y và Phong thủy.

2) Sự cân bằng Thủy-Hỏa:

Tuy rằng Thủy-Hỏa là nguồn phát sinh và nuôi dưỡng vạn vật, nhưng chúng không thể tách rời, hay tự tạo 1 mình, mà luôn luôn phải có sự điều hòa, phối hợp giữa 2 yếu tố này. Nếu chỉ có Thủy mà không có Hỏa thì trái đất sẽ hàn lạnh đến cực độ, nên sự sống dù có phát sinh cũng không thể thành hình. Nếu chỉ có Hỏa mà không có Thủy thì cực khô, nóng, vạn vật sẽ bị thiêu hủy hoặc không thể nảy sinh. Cho nên điều kiện đầu tiên để có sự sống là Thủy-Hỏa phải đối đãi, tương tác với nhau. Nói “đối đãi” tức là chúng phải nằm ở những khu vực đối nghịch và tách rời nhau, nhưng không phải để đối chọi, mà là để tương ứng và quân bình nhau. Chính vì vậy nên trong Hậu thiên Bát quái mới xếp quẻ LY ở NAM, quẻ KHẢM ở BẮC, LY thế chỗ của quẻ CÀN (trong Tiên thiên Bát quái) nên đứng ở trên, KHẢM thay chỗ của KHÔN mà nằm phía dưới. Tuy mới thoạt nhìn thì chỉ thấy đó là thế đối nghịch, nhưng nếu xét kỹ thì KHẢM (1) và LY (9) xuyên qua Thiên tâm mà tạo ra tình huống âm-dương, Phu-Phụ “Hợp thập” với nhau. Tức là phải thông qua hình thức xung đối mới có thể tương tác và quân bình cho nhau mà tạo dựng cũng như duy trì và phát triển sự sống. Cũng vì vậy nên chẳng những Thủy-Hỏa không thể tách rời, mà còn phải tương xứng và quân bình cho nhau nữa, như 1 LY đối với 1 KHẢM trong Hậu thiên Bát quái, tức 1 âm-1 dương, 1 vợ-1 chồng mới có thể tạo dựng và nuôi dưỡng được con cái. Một vấn đề quan trọng khác là giữa Thủy-Hỏa phải có sự quân bằng, chứ không được chênh lệch, có như vậy mới bảo đảm cho sự sống được hài hòa, mọi sinh vật tươi tốt, lớn mạnh không ngừng. Nếu chẳng may có sự chênh lệch thì trong sự sống sẽ xuất hiện nhiều biến động. Nếu Thủy nhiều tất Hỏa sẽ yếu, khiến cho âm khí, hàn lạnh sẽ làm chủ vạn vật, nên sự sống dù có được hình thành cũng khó mà tăng trưởng mạnh mẽ. Nếu Hỏa nhiều thì Thủy sẽ suy kiệt, sự sống dù có nhưng bị nhiệt Hỏa bức bách nên cũng khó lòng mà được yên ổn, lâu dài. Chẳng những thế mà nếu Thủy quá mạnh thì sẽ dập tắt Hỏa, nếu Hỏa quá mạnh thì sẽ làm khô cạn Thủy nên đều là những nguyên nhân đưa tới sự hủy diệt.

Cho nên sự cân bằng Thủy-Hỏa là 1 vấn đề quan trọng, là mấu chốt trong quá trình sinh thái của vạn vật, là nguồn gốc bảo vệ và duy trì sức khỏe cũng như hạnh phúc của con người. Chính nhờ những phát kiến và nguyên lý về Thủy-Hỏa của Hậu thiên Bát quái mà Đông y từ nghìn xưa đã biết thận (thuộc Thủy) là nội tạng đầu tiên xuất hiện trong cơ thể con người, hoặc những bệnh về tim (thuộc Hỏa) là căn do bởi thận, cho nên muốn chữa dứt bệnh tim thì phải lo chữa thận. Hoặc căn nguyên những bệnh về gan (Mộc), Phế (Kim), dạ dày (Thổ)... cũng đều từ thận hay tim mà ra... tức là căn do của bệnh tật, nguồn gốc của tử, sinh cũng đều do sự tương tác và cân bằng Thủy-Hỏa mà thôi.

3) Ứng dụng trong Phong thủy: nhưng những nguyên lý về Thủy-Hỏa trong Hậu thiên Bát quái chẳng những được ứng dụng vào Đông Y và những nghành khoa học Đông phương khác, mà còn được ứng dụng triệt để và hữu hiệu trong Phong thủy. Như chúng ta đã biết, đối với nhà cửa thì cổng, cửa ra vào, đường phố, ao hồ chung quanh nhà, buồng tắm trong nhà... đều thuộc Thủy. Còn bếp, cửa sổ, những vật dụng tiêu thụ điện, lửa... đều thuộc Hỏa (sở dĩ cửa sổ thuộc Hỏa là vì chỉ dùng để lấy ánh sáng, chứ không phải là lối ra, vào. Chính vì vậy nên phái Phong thủy Mật tông mới cho rằng nếu cửa sổ để dơ bẩn thì người trong nhà dễ bị bệnh về mắt, mà mắt thuộc Hỏa. Hoặc nhiều phái Phong thủy thường đòi hỏi số lượng cửa sổ và cửa ra vào phải tương ứng, cứ 1 cửa ra vào thì chỉ được có tối đa là 3 cửa sổ, tức là muốn tạo nên sự cân bằng giữa Thủy (cửa ra vào) và Hỏa (cửa sổ) mà thôi. Nếu nhà quá nhiều cửa sổ thì người trong nhà hiếu động hoặc bướng bỉnh, hung hãn (vì Hỏa quá nhiều)...). Biết rằng Thủy là nguồn của sự sống, nên 1 căn nhà tối thiểu cũng phải có 1 cửa ra vào thì mới có người vào ở được. Đó là chưa kể nếu vị trí cửa còn đắc vượng khí của Hướng tinh (tức đắc vượng “Thủy”) thì tài lộc của nhà đó sẽ dồi dào (vì Thủy là nguồn sống của vạn vật, nên đối với con người chính là của cải, lương thực). Nhưng nếu nhà đó chỉ có 1 cửa ra vào, 4 bề bít kín, tối tăm thì dù có của cải nhưng sức khỏe yếu kém, cuộc sống âm u, tẻ lạnh (vì thiếu Hỏa). Chính vì thế nên nhà mới cần mở cửa sổ để lấy ánh sáng chiếu vào. Nhưng ánh sáng chỉ là 1 nguồn Hỏa gián tiếp, nên dù có nhiều cũng chưa chắc đã lấy lại được thế quân bình Thủy-Hỏa, nhất là nếu chung quanh nhà lại có đường đi, ao, hồ, hoặc buồng tắm, bể nước... trong nhà. Cho nên đa số nhà cửa mới phải dùng đến bếp là nguồn dẫn Hỏa trực tiếp để đem lại thế quân bình Thủy-Hỏa ngay trong môi trường sống. Vì trong Hậu thiên bát quái, Hỏa là nguồn tăng trưởng và phát triển của vạn vật, mà bếp thường là nguồn xử dụng Hỏa nhiều nhất trong 1 căn nhà, nên ảnh hưởng đầu tiên của nó là tới vấn đề sức khỏe của mọi người sống trong căn nhà đó. Do đó, nếu biết cách đặt bếp sao cho làm tăng được sức của Hỏa, hoặc tạo được thế quân bình giữa Thủy-Hỏa trong nhà thì sức khỏe của mọi người trong nhà sẽ tốt, còn nếu không kiến tạo được sự cân bằng thì sẽ bị thế “Thủy vượng, Hỏa suy” hay ngược lại, khiến cho sức khỏe của mọi người trong nhà sẽ rất yếu kém.

Có những trường hợp nhà có cổng, cửa vừa lớn, vừa đắc sinh, vượng khí, mà chung quanh nhà lại có sông, hồ, biển lớn... cũng đắc sinh, vượng khí, tức là “Thủy cục” của nhà đó cực vượng. Lúc đó, dù bếp có được thiết kế hoàn bị đến đâu đi nữa (như cách xa buồng tắm, bồn rửa chén, bể nước...) cũng vẫn bị vượng Thủy của căn nhà áp chế. Cho nên muốn tái lập lại được thế quân bình Thủy-Hỏa cho căn nhà đó thì bếp cần phải được đặt tại những nơi có khí sinh, vượng của Sơn tinh, có như thế thì vượng Thủy của căn nhà mới được chế ngự, và Hỏa mới không còn bị Thủy lấn áp. Lý do là vì Sơn tinh (bất kể phi tinh là hành gì) 1 khi là sinh, vượng khí đều lấy Thổ (núi) làm đầu (cũng như Hướng tinh nếu là khí sinh, vượng cũng đều lấy Thủy làm trọng). Một khi Thủy khí của căn nhà quá mạnh, Hỏa khí của bếp không địch nổi, nhưng nếu đặt bếp tại nơi có vượng khí của Sơn tinh tức là mượn sức Thổ mà kềm chế Thủy. Lại còn lấy Hỏa (của bếp) sinh Thổ, khiến cho Thổ khí đã vượng lại còn được sinh, có như thế mới đủ sức chế ngự Thủy mà tái lập lại thế quân bình Thủy-Hỏa. Vì vậy nên người xưa mới có câu:”Thủy là nguồn của Hỏa, Hỏa là chủ của Thủy” chính là vì Hỏa tuy bị Thủy khắc, nhưng có thể sinh ra Thổ mà chế ngự Thủy vậy. Những nhà đã có Thủy khí cực mạnh mà vẫn tạo được sự cân bằng Thủy-Hỏa là những nhà đại phúc lộc, tài lộc, nhân đinh đều sẽ cực vượng. Ngược lại, nếu không có sự cân bằng đó thì Thủy sẽ áp chế Hỏa, khiến cho nhà đó tuy giàu có nhưng thường hay bị rơi vào tình trạng cô đơn hay tuyệt tự.

Một trường hợp khác là có những nhà khi đặt bếp lại vô tình để nó nằm tại những khu vực có sinh, vượng khí của Hướng tinh. Đây là 1 sai lầm tai hại vì đem bếp (Hỏa) vào đặt tại chỗ có vượng Thủy, khiến cho Thủy-Hỏa tương khắc mà làm hao tổn cả tài-đinh. Chính vì vậy nên trong “Thẩm thị Huyền không học” mới nhắc nhở phải tránh đặt bếp nơi chỗ có vượng khí. Nếu nơi này có thêm bồn rửa chén hoặc bể nước... thì tài sẽ vượng nhưng đinh không vượng. Còn nếu bếp đạt được những điều kiện tiêu chuẩn như xa lánh thủy, hoặc bếp lớn, được xử dụng thường xuyên... thì nhà tuy đông người nhưng tài lộc suy sụp. Cho nên bếp đặt tại khu vực có vượng khí của Hướng tinh thì hoặc là làm cho Thủy-Hỏa xung khắc, hoặc là làm cho Thủy-Hỏa mất quân bằng nên đều là vấn đề tai hại và cần phải tránh.

Nói tóm lại, 1 khi đã hiểu được nguyên lý Thủy-Hỏa tương tác và quân bằng với nhau là nền tảng của sự sống thì sẽ thấu hiểu được mọi công dụng của bếp, những phương pháp đặt bếp cho từng trường hợp cần thiết, cũng như nhiều nguyên lý Phong thủy khác. Hơn nữa, ngày nay với lối kiến trúc và tiện nghi hiện đại, với 1 nhà 5, 7 phòng tắm, cùng với sky-light (giếng trời), hồ tắm, lò sưởi điện, hệ thống TV, máy hát, computer... sẽ dễ làm cho nhiều người học Phong thủy phải hoang mang, bối rối. Nhưng nếu quay về với Hậu thiên Bát quái, nắm được những nguyên lý của Thủy-Hỏa vô hình thì mọi thứ sẽ được làm sáng tỏ. Cho nên như GS Nguyễn hữu Lương, tác giả bộ “Kinh Dịch với vũ trụ quan Đông phương” đã viết: Hậu thiên Bát quái là “công trình sáng tác vĩ đại nhất của Văn Vương... Đó là một siêu phẩm tân kỳ của một bộ óc toán lý học bậc sư của thế giới cổ kim”, và “Có Tiên thiên mà không có Hậu thiên thì quan niệm vũ trụ chưa được toàn diện” là vậy.

Tìm hiểu về 72 Long Thấu Địa

Dương Công ( Dương Quân Tùng ) lúc đầu chuyên sử dụng địa bàn 24 sơn âm dương Long cùng thuộc tính ngũ hành . Song qua quá trình tham khảo thực tế , Dương Công phát hiện dùng âm dương Long cách là quá thô thiển , trong tình huống thực tiễn rất dễ sai khác . Trải qua quá trình nghiên cứu , lúc đã cao tuổi Dương Công lấy 60 hoa giáp nạp âm ngũ hành biểu thị cho thuộc tính của Long , Long có âm dương ngũ hành từ 4 mặt tám phương đến , điều này phù hợp với thực tiễn . Bát quái vốn phản ánh các phương vị ngũ hành , đó là trạng thái của vũ trụ lúc hình thành . Tất cả đều do âm dương bát quái giao cấu mà biến hóa không ngừng tạo thành thế giới vật chất với các thuộc tính ngũ hành . Ngũ hành là một hệ thống liên quan chặt chẽ đến nhau , vừa khắc vừa sinh , không có hành nào đứng một mình . Bắc phương là Khảm quái thuộc thủy , nhưng tại phương Bắc nơi nơi đều có cây mọc , có kim loại , có đất , có lửa , Đông tây nam cũng vậy . Âm dương ngũ hành tại thực tế không thể có sự phân bố , tồn tại riêng biệt có chăng chỉ là sự ít nhiều , hoặc mạnh yếu hơi khác mà thôi . Kham Dư vốn là triết học Dịch ứng dụng vào thực tế , nó là thực địa khách quan không hề mang tính áp đặt . Đó là sự tương hợp chặt chẽ giữa ngành Kham Dư học với cuộc sống .



72 Long tương ứng với 360 độ chia làm 72 phần bằng nhau , mỗi Long chiếm 5 độ . Mỗi sơn đầu có 3 Long , mỗi quái có 9 Long . Tại chỗ Nhâm sơn giáp với Tý sơn khởi Giáp Tý theo chiều thuận an 1 vòng , tại vị trí 8 can và tứ duy có 3 độ không cách gọi là “Không Vong Long” . Đến chỗ Nhâm sơn tựa hợi sơn là đầy đủ 60 hoa giáp .
Không vong Long là căn cứ theo sự di chuyển của Long khí trên thực địa mà xác định . La bàn 24 sơn trên ứng trời , dưới ứng đất , bao hàm hết trời đất . Tứ duy 8 can thuộc Thiên hệ , phản ánh các quy luật của Thiên hệ ; 12 địa chi là Địa hệ , phản ánh các quy luật Địa hệ . Địa có thể tàng chứa Thiên hệ , sở vì có thể tàng chứa can , tức địa chi tàng can , cho nên nói trong địa bao hàm cả thiên can ; thiên ở trong bụng địa , thiên can ngược lại không thể hàm chứa địa khí . Thiên khí mà thuộc dương , khí chất rất nhẹ nổi lên rất cao , không thể lắng xuống đất , do đó thiên khí không nhập vào đất .

Long đi dưới đất , ứng dụng lý của 12 địa chi làm quy luật . Phong thủy cơ bản lấy “Thừa sinh khí” làm chính yếu , tứ duy bát can không có Long khí nên không có “Sinh Khí” vận chuyển trong lòng đất nên gọi là “Không Vong Chi Địa” .

Dương Công dùng 72 Long gọi là Ai Tinh , lấy 72 Long ngũ hành gọi là “Điên dảo ngũ hành” . “Điên điên đảo , 24 hữu châu bảo” tức là 72 Long ngũ hành . Sau khi phối 72 Long với ngũ hành , trong tám quái , mỗi quái đều có đầy đủ ngũ hành , so với nguyên lai bát quái thì hoàn toàn không giống . Vì vậy Dương Công mới viết trong “Thiên Ngọc Kinh” là : “Phiên Thiên Đảo Địa Đối Bất Đồng , Bí Mật Tại Huyền Không”

72 Long Phân Bố :

Khảm cung 9 Long :
Nhâm sơn hạ y thứ thị Quý Hợi thủy Long , Không vong Long , Giáp Tý kim Long ;
Tý sơn hạ thứ thị Bính Tý thủy Long , Mậu Tý hỏa Long , Canh tý thổ long :
Quý sơn hạ y thứ thị nhâm tý mộc long , không vong long , ất sửu kim long .
Kỳ trung , kim long nhị , mộc long nhất , thủy long nhị , hỏa long nhất , thổ long nhất , không vong long nhị .

Cấn Cung Cửu Long :
Sửu sơn hạ y thứ thị đinh sửu thủy long , kỷ sửu hỏa long , tân sửu thổ long ;
Cấn sơn hạ y thứ thị quý sửu mộc long , không vong long , bính dần hỏa long ;
Dần sơn hạ y thứ thị mậu dần thổ long , canh dần mộc long , nhâm dần kim long .
Kỳ trung , kim long nhất , mộc long nhị , thủy long nhất , hỏa long nhị , thổ long nhị , không vong long nhất .

Chấn Cung Cửu Tinh :
Giáp sơn hạ y thứ thị giáp dần thuỷ long , không vong long , đinh mão hoả long ;
Mão sơn hạ y thứ thị kỷ mão thổ long , tân mão mộc long , quý mão kim long ;
Ất sơn hạ y thứ thị ất mão thuỷ long , không vong long , mậu thìn mộc long .
Kỳ trung , kim long nhất , mộc long nhị , thuỷ long nhị , hoả long nhất , thổ long nhất , không vong long nhị .

Tốn Cung Cửu Long :
Thìn sơn hạ y thứ thị canh thìn kim long , nhâm thìn thuỷ long , giáp thìn hoả long ;
Tốn sơn hạ y thứ thị bính thìn thổ long , không vong long , kỷ tỵ mộc long ;
Tỵ sơn hạ y thứ thị tân tỵ kim long , quý tỵ thuỷ long , ất tỵ hoả long .
Kỳ trung, kim long nhị , mộc long nhất , thuỷ long nhị , hoả long nhị , thổ long nhất , không vong long nhất .

Ly Cung Cửu Long :
Bính sơn hạ y thứ thị đinh tỵ thổ long , không vong long , canh ngọ thổ long ;
Ngọ sơn hạ y thứ thị nhâm ngọ mộc long , giáp ngọ kim long , bính ngọ thuỷ long ;
Đinh sơn hạ y thứ thị mậu ngọ hoả long , không vong long , tân Mùi thổ long ,
Kỳ trung , hữu kim long nhất , mộc long nhất , thuỷ long nhất , hoả long nhất , thổ long tam , không vong long nhị .

Khôn Cung Cửu Long:
Khôn sơn hạ y thứ thị kỷ mùi hoả long , không vong long , nhâm thân kim long ,
Thân sơn hạ y thứ thị giáp thân thuỷ long , bính thân hoả long , mậu thân thổ long .
Hữu kim long nhị , mộc long nhất , thuỷ long nhị , hoả long nhị , thổ long nhất , không vong long nhất .

Đoài Cung Cửu Long :
Canh sơn hạ y thứ thị canh thân mộc long , không vong long , quý dậu kim long ;
Dậu sơn hạ y thứ thị ất dậu thuỷ long , đinh dậu hoả long , kỷ dậu thổ long ;
Tân sơn hạ y thứ thị tân dậu mộc long , không vong long , giáp tuất hoả long .
Hữu kim long nhất , mộc long nhị , thuỷ long nhất , hoả long nhị , thổ long nhất , không vong long nhị .

Càn Cung Cửu Long :
Tuất sơn hạ y thứ thị bính tuất thổ long , mậu tuất mộc long , canh tuất kim long ;
Càn sơn hạ y thứ thị nhâm tuất thuỷ long , không vong long , ất hợi hoả long ;
Hợi sơn hạ y thứ thị đinh hợi thổ long , kỷ hợi mộc long , tân hợi kim long .
Hữu kim long nhị , mộc long nhất , thuỷ long nhất , hoả long nhất , thổ long nhị , không vong long nhị .

Phongthuythuatso.vn Tổng hợp !

Những yếu tố cần thiết khi mua hoặc xây nhà

Có 1 số người biên thư hỏi về những yếu tố cần thiết khi xây (hoặc mua) nhà, mà vì nó khá dài dòng, nên tôi đã không thể trả lời đầy đủ được. Vì vậy nên tôi viết bài này để giúp mọi người có 1 số nguyên tắc lựa chọn nhà cửa, hầu có thể tránh được những tai họa do thiếu kiến thức về Phong thủy gây ra.

Khi mua (hoặc xây) nhà thì cần để ý đến những yếu tố chính sau đây: hướng nhà, năm mua (hoặc xây) nhà, phương vị di chuyển tới, cũng như địa hình chung quanh căn nhà. Nếu những yếu tố này xấu thì dù nhà có được thiết kế tốt đẹp như thế nào cũng khó tránh được tai họa, đau ốm, bệnh tật, làm ăn thất bại, hoặc có thể chết người...


1/ HƯỚNG NHÀ:

Khi mua (hoặc xây) nhà thì cần dùng la bàn để đo hướng nhà (hay hướng mảnh đất), để xem có phạm vào những tuyến Đại - Tiểu Không vong không? Nếu nhà phạm phải những tuyến đó thì rất xấu, dễ bị chết người, đau yếu, phá sản, gia đình chia ly, làm ăn lụn bại, hoặc dù làm có tiền cũng hao tán hết, tai họa liên miên... Vì vậy không nên mua, hoặc xây nhà có hướng phạm phải những tuyến đó. Tuy là có cách hóa giải cho những nhà này (nhà xây thì tương đối dễ hóa giải hơn nhà mua), nhưng vì nó phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác (như đường xá, địa hình bên ngoài, nhà hàng xóm chung quanh, diện tích xây dựng, thiết kế trong nhà...), nên không phải trường hợp nào cũng có thể hóa giải được. Hơn nữa, dù có hóa giải được cũng chỉ trong 1 thời gian (tối đa là khoảng 20 năm), rồi sau đó vẫn bị tai họa nặng nề. Do đó, tốt hơn hết là nên tránh nhà phạm hướng Đại - Tiểu Không Vong, chứ đừng tưởng có thể dùng những vật khí Phong thủy như bát quái, kỳ lân, hay chôn đá... mà có thể hóa giải được. Nếu có dùng những cách đó mà sau khi vào ở không có chuyện gì xấu xảy ra là do may mắn nhờ địa thế chung quanh, cũng như thiết kế, xử dụng... tốt đã hóa giải được nó, chứ không phải do những phương pháp đó có hiệu quả như vậy.

Về những hướng Đại - Tiểu Không Vong cũng có nhiều mâu thuẫn, có phái cho những tuyến nằm chính giữa mỗi sơn là Đại Không Vong, còn những tuyến nằm giữa sơn đó với 2 sơn bên cạnh (bên phải và bên trái) là Tiểu Không Vong. Thí dụ như sơn MÃO là từ 82.6 độ đến 97.5 độ, nên những hướng 82.6 độ và 97.5 độ là Tiểu Không Vong, còn hướng 90 độ (tức ngay chính giữa khoảng đó) là Đại Không Vong. Bởi vì họ cho rằng những hướng nằm ngay chính giữa mỗi sơn sẽ nhận phải khí cực mạnh của sơn đó mà hóa thành sát khí, nên cực hung và cần phải tránh. Còn với phái Huyền Không Phi Tinh thì lấy những tuyến phân chia mỗi sơn là Tiểu Không Vong, những tuyến phân chia mỗi hướng (tức 8 hướng của Bát quái là BẮC, ĐÔNG BẮC, ĐÔNG, ĐÔNG NAM, NAM, TÂY NAM, TÂY và TÂY BẮC) làm Đại Không Vong. Còn những tuyến nằm chính giữa mỗi sơn là tốt nhất và nên xử dụng. Qua thực tế quan sát nhà cửa tại Hoa Kỳ, với rất nhiều nhà có hướng nằm ngay chính giữa mỗi sơn, cũng như qua tác phẩm "Tòng sư tùy bút" của Khương Diêu viết về Tưởng đại Hồng (1 danh sư Phong thủy thời cuối nhà Minh bên Tàu), tôi thấy những hướng Đại - Tiểu Không Vong của Huyền Không Phi Tinh đúng hơn, và vì vậy tôi cũng theo những hướng đó.

Cho nên có 8 hướng Đại Không Vong cần tránh là:

- 22.5 độ (giữa hướng BẮC và ĐÔNG BẮC).

- 67.5 độ (giữa ĐÔNG BẮC và ĐÔNG).

- 112.5 độ (giữa ĐÔNG và ĐÔNG NAM).

- 157.5 độ (giữa ĐÔNG NAM và NAM).

- 202.5 độ (giữa NAM và TÂY NAM).

- 247.5 độ (giữa TÂY NAM và TÂY).

- 292.5 độ (giữa TÂY và TÂY BẮC).

- 337. 5 độ (giữa TÂY BẮC và BẮC).

Còn 16 hướng Tiểu Không Vong là:

- 7.5 độ (giữa TÝ và QUÝ).

- 37.5 độ (giữa SỬU và CẤN).

- 52.5 độ (giữa CẤN và DẦN).

- 82.5 độ (giữa GIÁP và MÃO).

- 97.5 độ (giữa MÃO và ẤT).

- 127.5 độ (giữa THÌN và TỐN).

- 142.5 độ (giữa TỐN và TỴ).

- 172.5 độ (giữa BÍNH và NGỌ).

- 187.5 độ (giữa NGỌ và ĐINH).

- 217.5 độ (giữa MÙI và KHÔN).

- 232.5 độ (giữa KHÔN và THÂN).

- 262.5 độ (giữa CANH và DẬU).

- 277.5 độ (giữa DẬU và TÂN).

- 307.5 độ (giữa TUẤT và CÀN).

- 322.5 độ (giữa CÀN và HỢI).

- 352.5 độ (giữa NHÂM và TÝ).

Kế đó lại cần phân chia mức độ nặng, nhẹ như sau: với 8 hướng Đại Không Vong và 8 hướng Tiểu Không Vong màu đỏ thì chẳng những là các tuyến đó phạm Không Vong,  mà những tuyến lớn hơn (hay nhỏ hơn) chúng 1.5 độ cũng đều phạm Không Vong cả. Thí dụ như 22.5 độ là tuyến Đại Không Vong, nên không phải chỉ có nhà phạm đúng hướng đó mới bị, mà ngay cả những nhà hướng 21 - 22 độ, hoặc 23 - 24 độ cũng đều phạm Đại Không Vong cả. Còn 8 hướng Tiểu Không Vong màu xanh thì chỉ khi nào hướng nhà phạm đúng vào những tuyến đó mới tính, nếu sai lệch trên 0.5 độ thì không kể.

2/ NĂM MUA (HOẶC XÂY) NHÀ:

Nhiều người khi mua (hoặc xây) nhà chỉ lo tránh các hạn Kim Lâu, Hoang Ốc, Thọ Tử, Tam Tai (so với tuổi của gia chủ), mà không biết (hay để ý) đến căn nhà muốn mua (hoặc xây) năm đó có cát tinh (sao tốt) hay hung tinh (sao xấu) đến tọa - hướng (tức phía sau và phía trước) nhà. Nếu được nhiều sao tốt của năm đó đến tọa - hướng nhà thì sau khi vào ở sẽ nhanh chóng gặp nhiều may mắn về công danh, tài lộc hoặc nhân đinh (có thêm người), nhất là nếu địa thế chung quanh nhà lại tốt, thiết kế thích hợp thì lại càng phát mạnh và nhanh chóng. Ngược lại, nếu chẳng may năm đó bị nhiều sao xấu đến tọa - hướng thì sau khi vào ở sẽ gặp nhiều trở ngại, khó khăn, thậm chí phá sản, hoặc chết người, cho dù là gia chủ có tránh được hết mọi hạn Kim Lâu, Hoang Ốc...cũng vẫn bị tai họa như thường.

Vì vậy, khi mua (hoặc xây) nhà thì vấn đề quan trọng là cát hoặc hung tinh tới tọa - hướng của căn nhà trong năm đó, chứ không phải là tránh các hạn tuổi cho gia chủ. Do đó, nếu có thể kiếm được nhà có nhiều cát tinh tới thì càng tốt, còn nếu không thì ít ra cần phải tránh nhà bị nhiều hung tinh chiếu tới trong năm đó. Những hung tinh độc hại nhất cần phải tránh là:

a/ Ngũ Hoàng (số 5): nếu đến hướng thì dễ bị phá sản, làm ăn lụn bại. Nếu đến tọa thì nhà có người chết, hoặc bị tai nạn, bệnh tật nghiêm trọng. Đặc biệt là nếu Ngũ Hoàng  lại gặp sao Lực sĩ thì chắc chắn gia chủ sẽ phải chết.

b/ Tam Sát: nếu tới tọa có thể gây chết người, hoặc gặp nhiều bệnh tật, tai họa, tùy theo phương tọa gặp KIẾP SÁT, TAI SÁT hay TUẾ SÁT (tức Tam sát) mà mức độ nặng, nhẹ sẽ khác nhau. Nhưng tới hướng thì lại không hề gì, ngoại trừ động thổ, chặt cây lớn tại đó.

c/ Tuế Phá: nếu tới hướng cũng sẽ gây nhiều khó khăn, trắc trở, bế tắc cho công danh, sự nghiệp, hoặc đau ốm, bệnh tật. Nếu tới tọa hoặc những nơi khác thì lại không hề gì, trừ khi là động thổ, đập phá, tu sửa... tại đó.

d/ Thái Tuế: tùy theo từng trường hợp mà có khi tốt, có khi xấu. Nếu tốt thì rất tốt, có thể vượng phát công danh, sự nghiệp. Còn nếu xấu thì rất xấu, có thể phạm hình pháp, tù tội, phá sản hoặc chết người. Thông thường thì người ta sợ Thái Tuế đến hướng, còn cho rằng nếu nó đến tọa thì không hề gì. Nhưng đối với Huyền Không Phi tinh thì tùy theo từng trường hợp mà Thái Tuế đều có thể phát phúc hoặc gây tai họa, bất kể là khi nó đến tọa hay đến hướng.

Đó là những sát khí cực hung cần phải tránh mỗi khi mua hoặc xây nhà. Những sao này lại không cố định, mà thay đổi vị trí theo từng năm, và đều được nói tới trong các bài viết Phong thủy mỗi năm. Tuy là có cách hóa giải cho những sao đó, nhưng không phải trường hợp nào cũng có thể hóa giải được. Nhất là với những người không biết nhiều về Phong thủy thì tốt hơn hết là nên tránh mua (hoặc xây) nhà vào năm có những sao đó đến tọa - hướng nhà.

3/ PHƯƠNG VỊ DI CHUYỂN ĐẾN:

Tức là từ nơi đang ở hiện tại dọn đến nhà mới là đi về hướng nào? Nếu đi về khu vực có Ngũ Hoàng, Thái Tuế, Tuế Phá, Tam Sát, Thất Xích, Tam Bích cũng thường bị tai họa, bệnh tật, thương tích, kiện tụng, tranh chấp, gia đình chia lìa, ly dị, hoặc làm ăn thất bại...Chẳng hạn như năm nay (BÍNH THÂN - 2016) niên tinh Ngũ Hoàng đến phía ĐÔNG BẮC, nên nếu mua nhà mới nằm ở phía ĐÔNG BẮC so với nhà đang ở thì cũng dễ mắc tai họa sau khi vào ở, nhất là nếu hướng nhà, địa hình, thiết kế lại xấu thì càng tai hại hơn.

4/ ĐỊA THẾ CHUNG QUANH NHÀ:

Vấn đề này khá phức tạp, vì không những cần có kiến thức khá về loan đầu (hình thế), mà còn phải biết phối hợp với Phi tinh mới có thể nhận ra sự tốt, xấu của địa hình chung quanh, chứ không phải hoàn toàn dựa vào tính chất tốt hay xấu của loan đầu. Ở đây chỉ nói chung và vắn tắt, nên chủ yếu là đường xá quanh nhà cần ngay thẳng, không cong quẹo, xiên xẹo, chéo góc với hướng nhà. Bởi vì đường xá không ngay thẳng thì tâm thuật của con người cũng thường bất chính, gian tà, tiểu nhân, ti tiện, còn nếu là người ngay thẳng thì lại bị kẻ gian làm hại, chà đạp, lấn áp, nhất là nếu hướng nhà lại xấu, vận khí nhà về nhân đinh cũng xấu thì càng lộ rõ hơn. Đường càng lớn, càng dài thì càng tốt, nhưng không nên nằm gần xa lộ (highway), cũng như đường rầy xe lửa hoặc sân bay (airport).

Chung quanh nhà cũng cần thoáng đãng, sáng sủa, không bị cây cối che chắn nhiều, nhất là ở 2 mặt trước - sau. Nhà cũng không nên quá gần những trạm biến điện, những nhà máy hóa chất, những hãng xưởng gây nhiều tiếng động lớn, hoặc nhả khói nhiều. Nếu gần nhà có núi, đồi, gò cao hay đất thấp trũng, sông, hồ... thì càng phải cẩn thận, vì có thể phát mạnh về tài - đinh, nhưng cũng có thể tán gia bại sản, chết người.

Nếu mua nhà trong chung cư và ở trên các tầng cao thì cần phải coi vượng khí của Sơn tinh không thể nằm ở phía trước căn hộ, vì dễ có tai họa về nhân đinh và có thể chết người, hoặc gia đình ly tán, chia lìa (nếu căn hộ không có những cách khác cứu giải). Nếu căn hộ nằm trong chung cư nhỏ, phía sau cũng trống thoáng thì vượng khí của Sơn tinh cũng không thể đến phía sau, vì cũng sẽ bị tai họa về nhân đinh như trường hợp ở trên.

Ngoài địa thế chung quanh nhà thì còn phải để ý đến thiết kế và cách xếp đặt, xử dụng của căn nhà. Vấn đề này cũng rất dài dòng, phức tạp, và cũng cần phải có trình độ khá về Phong thủy mới biết được. Còn ở đây chỉ xin nói vắn tắt là cần tránh những nhà có quá nhiều góc cạnh; tường vách trong nhà có nhiều chỗ xéo; nền nhà không bằng phẳng, mà chỗ cao, chỗ thấp, hoặc làm "lệch tầng" (bi - level); hoặc phần sau nhà lại xây nhô ra, nhưng nhỏ hẹp hơn với những phần trước nhà... vì đều là những nhà xấu, rất dễ mắc tai họa, thương tật hoặc làm ăn lụn bại.

Về địa hình chung quanh, cũng như thiết kế căn nhà, quý vị có thể tìm đọc loạt bài "PHONG THỦY TRONG VIỆC QUY HOẠCH & THIẾT KẾ" để biết nhiều chi tiết hơn. Kế đó mới ứng dụng trạch vận và Phi tinh với những yếu tố loan đầu thì mới tìm được 1 căn nhà tốt cho bản thân và gia đình mình.

Đó là 1 số điểm cần chú ý khi mua (hoặc xây) nhà. Tuy nó còn thiếu sót rất nhiều, nhưng cũng có thể giúp quý vị tránh được nhiều tai họa, bệnh tật do phạm phải những sai lầm ở trên.