Khảo cứu thủy pháp tiên thiên phối hậu thiên bát quái

 + Tiêu Thủy : Thiên tiên lai thủy ( nước đến ) , hậu thiên khứ thủy ( nước đi ). Nghĩa là thuỷ đến tại Tiên thiên, thuỷ đi tại Hậu thiên, gọi là “Tiên thiên phá Hậu thiên”. Hay nói dễ hiểu hơn, là nước đến cung nào Tiên thiên, mà ra cung đó Hậu thiên là phạm, cụ thể:



Nước Càn (Nam) chảy đi tại Cấn (Tây Bắc),
nước Khôn (Bắc) chảy đi tại Tốn (Tây Nam),
nước Ly (Đông) chảy đi tại Càn (Nam),
nước Khảm (Tây) chảy đi tại Khôn (Bắc),
nước Đoài (Đông Nam) chảy đi tại Khảm (Tây),
nước Chấn (Đông Bắc) chảy đi tại Ly (Đông),
nước Tốn (Tây Nam) chảy đi tại Đoài (Đông Nam),
nước Cấn (Tây Bắc) chảy đi tại Chấn (Đông Bắc).
+ Vong thuỷ: Hậu Thiên lai thủy - Tiên Thiên khứ thủy .
Nghĩa là thuỷ đến tại Hậu thiên, thuỷ đi tại Tiên thiên, gọi là “Hậu thiên phá Tiên thiên”. Hay nói dễ hiểu hơn, là nước đến cung nào Hậu thiên, mà ra cung đó Tiên thiên là phạm, cụ thể:
Nước Càn (Tây Bắc) chảy đi tại Ly (Nam),
nước Khôn (Tây Nam) chảy đi tại Khảm (Bắc),
nước Ly (Nam) chảy đi tại Chấn (Đông),
nước Khảm (Bắc) chảy đi tại Đoài (Tây),
nước Đoài (Tây) chảy đi tại Tốn (Đông Nam),
nước Chấn (Đông) chảy đi tại Cấn (Đông Bắc),
nước Tốn (Đông Nam) chảy đi tại Khôn (Tây Nam),
nước Cấn (Đông Bắc) chảy đi tại Càn (Tây Bắc).
Phàm là Tiên thiên chảy phá Hậu thiên đều gọi là “tiêu”, Hậu thiên chảy phá Tiên thiên gọi là “vong”, nếu phương vị Tiên Hậu thiên chảy phá lẫn nhau gọi là nước “tiêu vong bại tuyệt”. Nếu gặp nước tiêu vong lại kiêm long huyệt không tốt, nhân khẩu và tiền tài gia chủ đều bại.

Phong Thủy Hưng Nguyễn
https://www.facebook.com/photo/?fbid=1644953782289253&set=a.1590501171067848

Lá số tử vi VUA BẢO ĐẠI - Lá Số Đế Vương

 Dưới góc độ của người nghiên cứu số mệnh, lá số tử vi của ông Bảo Đại thật ra đáng thương hơn là đáng trách, đây là một lá số Thân Bất Do Kỉ - thân phận của mình nhưng lại không do mình quyết định, mà bị chính thời cuộc, gia đình, xã hội định đoạt.

Cung Phu Thê trong lá số của ông lại là một cung mạnh chi phối toàn bộ cuộc đời của ông, thành công cũng vì cung này mà thất bại cũng vì cung này. Cả sự nghiệp và cuộc đời của ông thăng trầm vì phụ nữ nhiều hơn là vì thời cuộc chính trị.



Xét qua số mệnh của ông, ta thấy ông Thân Cư Quan Lộc, những người sinh vào hai khung giờ từ 03:00-05:00 và 15:00-17:00 sẽ thuộc cách số này. Cung Quan Lộc là cung chỉ về sự nghiệp, công việc và còn là thể hiện thân phận của chính người mang lá số. Cung Quan Lộc luôn đối cung là Cung Phu Thê, nên cách này chưa cần biết tốt hay xấu thì chắc chắn người vợ của đương số sẽ có ảnh hưởng lớn đến công danh sự nghiệp cả đời của người mang số mệnh này. Những ai thuộc Thân Cư Quan Lộc đều sẽ bị chi phối rất lớn bởi người bạn đời, thành hay bại cũng nằm ở duyên số lấy được người bạn đời tài giỏi giúp đỡ hay phá rối. Cung Quan Lộc của ông lại là một phá cách trong tử vi, Triệt - Liêm Trinh, Thiên Tướng đóng ngay tại đó, sự nghiệp bị triệt mang ý nghĩa gãy đổ, dở dang nên cách này cũng là cách phá sản, mất mát. Nếu ở xã hội bây giờ thì gọi là phá sản, vỡ nợ. Bởi vì thân phận của người mang lá số này là vua, nên đây là cách mất nước, mất ngai vàng. Vậy không lẽ ai mang lá số này đều sẽ làm vua Bảo Đại? Đúng mà lại không đúng, đây là lá số làm vua, nhưng tuỳ vào xuất thân của gia đình mà bạn sẽ làm mang thân phận vị vua gì. Nếu lá số của bạn sinh ra trong một gia đình kinh doanh làm ăn, thì đây là cách thức kế thừa cơ nghiệp của cha mẹ, bạn là ông tổng giám đốc, người điều hành công ty của cha mẹ, cũng giống như Bảo Đại thừa hưởng cơ nghiệp của ông cha mình với công ty tên là Đại Nam. Nhưng tiếc thay bởi chữ Triệt phá tan vẻ đẹp của Liêm Trinh - Thiên Tướng nên kết cục là nước mất nhà tan, ngai vàng sụp đổ, vị vua cuối cùng của nước Việt Nam.



Nguyên do sẽ bắt nguồn từ hai cung xoay quanh cung Quan Lộc của ông, đó chính là cung Phu Thê xung chiếu và cung Nô Bộc liền kề nhị hợp. Hai cung này phối hợp với nhau khiến cho định mệnh đã định sẵn trong lá số trở thành sự thật. Nam Phương Hoàng Hậu chính là người xúi giục ông đưa Ngô Đình Diệm về nước làm Thủ Tướng. Và sau này chính Ngô Đình Diệm lật đổ. Xung chiếu là vợ, kề vai sát cánh là bạn bè đã khiến sự nghiệp cả Triều Nguyễn tiêu tan. Nhưng cũng không trách được Nam Phương Hoàng Hậu, bởi bà cũng không biết cung Nô Bộc của ông quá xấu, toàn bọn nguỵ quân tử vây quanh Thiên Lương Địa Kiếp, ma quỷ đội lốt thiên thần. Và từ đây Phá Quân ở Cung Phu Thê của ông Bảo Đại ứng với việc phá rối, phá tan.
Nhìn vào Lá Số Tử Vi của ông ta thấy Cung Phu Thê mang ngôi sao Phá Quân, nhưng đây lại là nơi những ngôi sao đẹp và cả những ngôi sao rất xấu cùng gặp nhau. Một nơi mà cái tốt và cái xấu lẫn lộn vào nhau, trắng đen, thật hư, vui buồn như một chén cháo thập cẩm. Chính Nam Phương Hoàng Hậu ngỏ ý đưa Ngô Đình Diệm về, nhưng bà cũng chính là người cưu mang ông khi ông sống lưu vong ở nước ngoài. Đối với Cung Phu Thê như thế này không biết phải thương hay phải giận, người nghiên cứu số mệnh như Chép đây chỉ thấy khổ cho hai nhân vật chính và những người phụ nữ là tình nhân, vợ hai, vợ ba của ông Bảo Đại.
Cách số của nhà vua là số đa thê, nhưng buồn thay người phụ nữ nào bước vào cuộc đời của ông đều không có số phận vui vẻ. Hay nói đúng hơn là những người đau khổ giống nhau sẽ có duyên gặp nhau để làm cho số mệnh tương ứng qua lại. Số mệnh Nam Phương Hoàng Hậu và các bà vợ của ông Bảo Đại cũng đều là những cách số đau buồn và có kết thúc cô đơn một mình, thì số mệnh sẽ đưa đẩy đến kết duyên với nhà vua này. Cũng không thể trách nhà vua, vì nếu không lấy nhà vua làm chồng thì những người phụ nữ kia cũng sẽ chọn chồng giống như cuộc đời nhà vua mà thôi.
Cuộc đời của nhà vua từ lúc thanh niên cho đến lúc chết đều vì phụ nữ mà sung sướng và cũng vì họ mà mất hết tất cả. Ai bước vào đời của ông sẽ định đoạt số mệnh của ông, bởi cung Thân đóng tại Quan Lộc bị Triệt nên cuộc đời của nhà vua đã không còn trong tay ông từ lúc lọt lòng có ngày giờ sinh tháng đẻ. Ông lên ngai vàng cũng là do không còn ai có thể làm vua, thân phận vua chúa dúi vào tay ông buộc ông phải lên ngôi, rồi thời thế buộc ông phải lưu vong xa xứ, rất nhiều những hoàn cảnh éo le do chính ngôi sao Triệt này mang đến cho ông. Số phận đã định đoạt ông, chứ ông không hề nắm giữ được cuộc đời của mình. Vì vậy đây là một số phận đáng thương.
Cách tốt của cung Phu Thê của ông là Hoá Lộc, nơi tiền tài vật chất được sinh ra và làm giàu cho ông. Tất cả những người phụ nữ đến với ông đều sẽ có chung một cách là giúp ông ổn định về tài chính dù sống ở Việt Nam hay ngoại quốc. Nhưng rồi Phá Quân đi với Đào Hoa thì duyên số, hoa đào tình yêu cũng bị phá tan nát không vì những chuyện khách quan hay chủ quan mà tan vỡ cuộc tình. Cách Phá Quân này là cách tan vỡ gia đình, cộng thêm ngôi sao tình thương Thiên Tướng và ngôi sao lâu dài Liêm Trinh ở cung an Thân của ông bị triệt thì tình thương gãy làm đôi, sự lâu dài thành đứt đoạn. Không cần Cung Phu Thê có Phá Quân thì hai ngôi sao bị Triệt ở cung Thân của ông cũng đủ làm chuyện gia đình tan nát rồi. Hai điều này đến cùng một lúc chỉ làm câu chuyện thêm bi kịch và hấp dẫn hơn thôi.
Đây là số mệnh khổ vì chữ tình và sung sướng cũng vì chữ tình. Sướng cái thân nhưng tâm thì mang đau đớn. Đến bây giờ vẫn mang tiếng ngàn đời là ông vua bội bạc, phản bội người yêu thương mình. Nhưng công bằng mà nói thì Phu Thê của ông cũng góp phần làm tan nát cuộc đời của ông rồi còn gì. Nên những ai có số mệnh Thân Cư Quan Lộc hãy cố gắng cẩn thận với những gì người bạn đời của mình tư vấn cho, thành hay bại cũng là do một nửa của mình quyết định.
Lá Số Tử Vi của Bảo Đại chỉ đẹp đúng một cung duy nhất là cung Mệnh, người tử tế, lương thiện, hiền lành. Ông chỉ được có những đặc tính đó. Còn lại cách số của ông không được bất kì một điều gì. Bởi vì lương thiện nên sống rất thọ 87 tuổi mới qua đời. Vì tử tế nên dù nước mất nhà tan nhưng lúc nào cũng ấm no, không lo đói rét. Ông trời cũng chỉ có thể cho ông được nhiêu đó thôi.

Bảo Đại có cung nô rất xấu, toàn bị người hợp tác làm cùng đâm sau lưng, rõ ràng nhất là bị Ngô Đình Diệm phế truất vị trí quốc trưởng và phải sống lưu vong, sau đó cựu hoàng lao vào cờ bạc, chán nản.

Mệnh này là người ham vui thiên hỷ văn xương - thích thưởng thích cái đẹp sự xa hoa, chuyện tình cảm nhất thời thoáng chốc thiên không hồng loan. Đời sống tình cảm khá phông phú.
Phá quân ở thê chỉ sự thất thường đê thay đổi, lúc cưới Np hoàng hậu ông hứa 1 vợ 1 chồng, nhưng khi gặp cô mộng điệp thì đã thay đổi ý định đó.

Có thể nói ở đại vận trước 53 tuổi còn sống khá sung sướng, nhưng sau năm 53 tuổi thì đời sống kinh tế khá chật vật và đời sống tình cảm hôn nhân có nhiều sự buồn thương, nhất là tình cảm gia đình. Nhưng với ông hoàng này thì có thể nhiều lúc vẫn được phụ nữ, người tình giúp đỡ về tài chính khá nhiều. Như bà vợ ng Pháp, mộng điep, nam phương ... khi sang pháp bao nhiêu tài sản tiền cũng đưa cựu hoàng vào thú vui tiêu khiển.

Cung Điền Trạch, Cự Môn Hoá Quyền nhà cửa to đẹp bề thế, trước đây tài sản của ngài từ đà lạt, sài gòn, bên pháp ... ko đâu là ko có. Có điều cung điền này lại nằm ở cung hợi, thiên mã gặp đà la ...phải di chuyển không ở đâu lâu dài một chỗ. Càng về sau càng suy vi, tài sản, nhà cửa cứ đội nón ra đi. Đúng là nhất mệnh nhì vận, nữa đời người về sau của ngài quá buồn. Cung Tài có sao Vũ khúc, vũ khúc vốn dĩ là tài tinh ngài có tư duy kinh tế khá là nhạy bén, từng có giai thoại ngài từng đi giữa sài gòn và hongkong để buôn tiền nhằm ăn chênh lệch giữa tiền đông dương và tiền hongkong thì phải.
Ngô Đình Diệm 1901 là tuổi Tân Sửu, nghe lời NP hoàng hậu , Bảo Đại mời Họ Ngô về nước làm Thủ Tướng. Nhưng không ngờ sau này đc sự hậu thuẫn của Mỹ, Bảo Đại bị hất chân khỏi chính trường. Bảo đại sinh tân sửu nhập quái ở cung Nô Bộc của bảo đại, lại làm sao văn xương tại mệnh hoá kỵ, với mình thì hộ Ngô là tay đâm sau lưng Bảo Đại mà thôi. Lá số này phải nói là cung Nô địa kiếp gặp triệt, tuy nhị hợp với quan. Bạn bè, người làm giúp sức nhưng ko thực tâm, phản bội. Nên cuộc đời ngài trên chính trường quả thực là rất mờ nhạt.

Sơn thủy pháp, thủy khẩu [Địa Lý Tả Ao Bí Thư Đại Toàn]

CHƯƠNG III. SƠN THỦY PHÁP

Sơn thủy pháp là cách xem tướng đất để biết người ra sao.

Câu 1: Nhân ư hiền ngu, hệ ư sơn thủy

Dịch

Người để được đất mà hiền hay ngu, là do sơn thủy của cuộc đất đó.

Câu 2: Sơn hậu nhân phì, sơn bạc nhân sấu.

Sơn tịnh nhân hảo, sơn trọc nhân mê

Dịch

Nếu núi mà đầy đặn thì sinh người mập mạp, nếu núi mà bạc nhược thì sinh người ốm gầy, núi mà tinh thì sinh người tốt giỏi, núi mà ô trọc thì sinh người ngu mê.

Câu 3: Sơn quý kỳ tú, nhi la

Ố kỳ trực ngạnh nhi chí.

Dịch

Núi quý ở chỗ thanh tú mà đến.

Núi ghét ở chỗ trực ngạnh mà tới.

Câu 4: Huyệt tại sơn, nhi họa phúc tại thủy.

Dịch

Huyệt ở núi mà họa phúc ở nước

Câu 5: Thủy tĩnh nhân tú, thủy trọc nhân mê

Thủy khứ nhân bần, thụy tụ nhân phú

Dịch

Thủy tĩnh thì sinh người thanh tú, thủy ô trọc thì sinh người mê muội.

Thủy chảy siết (không tụ) thì sinh người nghèo khó. Thủy dồn tụ thì sinh người giàu có.

Câu 6: Thủy quý kỳ khuất khúc nhi chí

Ố kỳ tà phản nhi lưu

Dịch

Thủy quý ở chỗ quanh co mà đến.

Ghét vi phản tà mà chảy qua.

Câu 7: Sơn vi phu thủy vi phụ, phu xướng phụ tùy

Dịch

Sơn là chồng, thủy là vợ, chồng xướng xuất thì vợ phu theo.

Câu 8: Sơn vi hùng, thủy vi thư

Hệ sơn tắc thủy tòng

Dịch

Sơn là hùng, thủy là thư, có sơn dẫn là có nước theo.

Câu 9: Sơn chủ nhân, thủy chủ tài

Dịch

Sơn chủ người, thủy chủ tiền của.

Câu 10: Sơn yếu hồi, nhi thủy yếu nghịch

Dịch

Sơn cầu hồi, mà thủy cầu nghịch

Câu 11: Sơn hậu vượng nhân đinh

Thủy triều tiến tài lộc

Dịch

Sơn dầy, hậu thì vượng người.

Thủy triều lại thì thêm tài lộc.

Câu 12: Sơn súc súc nhi tối ái tú.

Thủy dương dương nhi triều cực thanh.

Dịch

Sơn chót vót thì quý nhất là tú mỹ.

Thủy rào rạt triều về mà trong suốt.

Câu 13: Sơn vưu hậu nam nữ thọ xương

Thủy chừng ngưng tử tôn thanh tú

Dịch

Sơn càng hậu thì trai gái càng thọ xương.

Thủy càng ngưng đọng thì con cháu càng thanh tú.

Câu 14: Sơn tha nga ác khí, bất cát

Thủy bộc lộc, khắp khốc, tối hung

Dịch

Sơn lởm chởm có ác khí thì không cát

Thủy bộc chảy kêu réo (như khóc) thì rất hung.

Câu 15: Hữu sơn vô thủy, vi chi cô sơn

Hữu thủy vô sơn vị chi cô thủy

Dịch

Có sơn mà không có thủy gọi là cô sơn

Có thủy mà không có sơn gọi là cô thủy.

Câu 16: Sơn cố thủy, thủy cố sơn; dung kết chi địa dã

Sơn nghênh thủy, thủy nghé sơn mới là có đất kết vậy.

CHƯƠNG IV. MINH ĐƯỜNG THỦY PHÁP
HƯỚNG DẪN PHẦN MINH ĐƯỜNG THỦY PHÁP

Nước tụ trước huyệt là Minh Đường. Một minh đường tốt phải có đủ điều kiện tốt chỉ dẫn ở chương này. Minh đường có thể chỉ có một và có thể có hai hay ba hay nhiều hơn nữa. Minh đường gần sát là nội đường, kế nữa xa hơn là trung đường, và xơ nữa là ngoại đường. Muốn biết giàu có hay nghèo khó ta hãy coi minh đường. Muốn biết thông minh hay ngu tối, ta cũng nên coi minh đường.

MINH ĐƯỜNG THỦY PHÁP
Câu 1: Hình như ấn chưởng, tất chủ mãi điền.

Thế nhược tu nang, định gia tích ngọc.

Dịch

Minh đường hình như bàn tay để ngửa (trũng) chủ mua được nhiều ruộng đất.

Minh đường thế như cái túi chứa, định rằng nhà có ngọc ngà súc tích.

Câu 2: Tiên thủ minh đường

Hậu thủ điền ngọc

Dịch

Trước phải có minh đường.

Sau mới có ruộng đất, vàng ngọc.

Câu 3: Hữu đường hữu huyệt

Vô đường vô huyệt.

Dịch

Có minh đường mới có huyệt kết.

Không có minh đường thì không có huyệt kết.

Câu 4: Đường bất nhất đẳng nhi hữu đa dạng

Dịch

Đường không phải chỉ có một dạng, mà có nhiều hình dáng.

Câu 5: Đệ nhất tối quý giả:

– Nội mật tiểu tiểu

– Hoặc phương, hoặc viên

– Hoặc dung nhân trác ngọa giai sử

Lưỡng thủy thiếp ư nội, nhi ngoại hữu đường dung vạn mã.

Dịch

– Quý nhất là bên trong kính đáo, nho nhỏ.

– Hoặc vuông hoặc tròn.

– Hoặc vừa người nằm nghiêng đều khiến cho hai mạch thủy yên lặng ở trong, mà bên ngoài lại có minh đường rộng lớn chứa được ngàn vạn con ngựa

Câu 6: Đường hữu nội, hữu trung, hữu ngoại, vị chi tam đường.

Dịch

Đường có nội đường, trung đường, ngoại đường, gọi là tam đường.

Câu 7: Tam đường giả, giai tích tụ phú quý tiền tài vô số

Dịch

Cả ba đường này đều có nước tích tụ, thì có rất nhiều tiền của.

Câu 8: Nhất thốn thổ, nhất thốn kim, tứ thời sơn thủy, tứ thời trân.

Dịch

Một tấc đất (nước) một tấc vàng, bốn mùa sơn thủy (có nước) lài loại minh đường bốn mùa trân quý.

Câu 9: Địa hữu minh đường như nhân hữu phúc, cổ tích thủy nhi tích huyết.

Dịch

Đất có minh đường cũng như người có tâm phúc, cho nên chứa thủy là chứa huyết mạch.

Câu 10: Minh đường bình chính giả, tử tôn tuấn tú tài lương.

Minh đường tà khuynh giả, tử tôn du đãng, bần phạp.

Dịch

Minh đường mà ngay ngắn thì con cháu hiền tài.

Minh đường mà nghiêng lệch thì con cháu du đãng nghèo.

Câu 11: Tích thủy vị chi tích ngọc, tán thủy tức tán tài.

Dịch

Minh đường có chứa nước cũng như chứa ngọc, minh đường mà nước chảy tiêu tan cũng như tán tài.

Câu 12: Sở kỵ giả, thu vô thủy.

Sở úy giả, nội thế tà.

Dịch

Điều đáng kỵ là mùa thu minh đường cạn nước.

Điều đáng sợ là nội thế minh đường nằm nghiêng (không kết).

Câu 13: Thủy thuận khứ, khí bất tụ

Dịch

Nước chảy xuôi thuận đi (không chứa) thì khí không tụ (vì nước theo khí của núi).

Câu 14: Đại để phú quý, bần tiện, hệ ư minh đường, thử đặc luận minh đường phương yếu ư địa vị.

Dịch

Đại để giàu sang nghèo hèn là quan hệ ở minh đường đây là đặc biệt bàn về minh đường đối với vị trí của đất.

Câu 15: Tây Bắc bản Kim, thủy tụ khí chung quán (tài liệu mờ)

Dịch

Tây Bắc vốn hành Kim (quẻ Càn). Cố thủy tụ khí chung suốt, kín che chở chu đáo rồi, cho nên nói rằng Bắc thì không cần luận minh đường.

Lời bàn thêm: Thực ra thì nước chảy theo chiều Tây Bắc, Đông Nam nên huyệt quay về hướng Tây Bắc, đã thu được tất cả thủy từ cao xa về lòng rồi.

Câu 16: Tuy nhiên Đông Nam chân kỳ thủy tụ. Nhược thâm nội, thái quá giả, khả kỵ. Khoáng đại thuận lưu, khả kỵ.

Dịch

Tuy nhiên phương Đông Nam thiệt có thủy tụ, nhưng nếu sâu quá cũng đáng kỵ, mà không khoáng rộng lớn, chảy xuôi cũng đáng kỵ.

Câu 17: Tả khuynh giả, sơ niên bất lợi.

Dịch

Nghiêng về bên trái thì những năm đầu không lợi.

Câu 18: Cục mỹ, đường khuynh, thoái quan lạc chức

Dịch

Cuộc đất đẹp mà đường nghiệp thì làm quan trước sau cũng bị thoái quan lạc chức.

Câu 19: Huyệt cát thủy khuynh tức quý nhi bần.

Dịch

Huyệt cát mà nước nghiêng thì quý nhưng nghèo.

Câu 20: Đường cận tốc phát, đường viễn trì phát.

Dịch

Đường gần huyệt thì phát sớm, đường xa huyệt thì phát chậm.

Câu 21: Đường thanh, thanh tú, đường trọc, trọc dâm.

Dịch

Đường trong sinh người thanh tú, đường đục thì sinh người trọc dâm.

Câu 22: Tả tụ, trưởng nam tiến phát

Hữu tụ, thứ nam tiên hưng.

Dịch

Đường tụ bên trái thì trai trưởng phát trước,

Tụ bên phải thì trai thứ phát trước.

Câu 23: Thử Minh Đường chi thể luận dã.

Dịch

Đây là luận về đại thể minh đường.

THỦY KHẨU
Câu 24: Khai thủy khẩu định long lai:

1. Ất, Bính giao nhi xu Tuất

2. Tân, Nhâm hội nhi tụ Thìn

3. Đẩu Ngưu nạp Đinh Canh chi Khí,

4. Kim dương thu Quý Giáp chi linh.

Dịch

Thấy thủy khẩu thì biết long lai:

1. Ất Bính giao nhau mà đi đến Tuất.

2. Tân Nhâm hội ngộ rồi tụ ở Thìn.

3. Đẩu Ngưu (Sửu) là nơi nạp khí của Đinh Canh.

4. Kim Dương (Mùi) là chỗ thu linh khí của Quý Giáp.

Cho ta biết là biết thủy khẩu thì biết long lai (long đến) như sau:

1. Long đến từ phía Nam, nếu thủy khẩu xuất ra ở phía Bắc (Tuất).

2. Long đến từ phía Bắc, nếu thủy khẩu xuất ra ở phía Nam (Thìn).

3. Long đến từ phía Tây, nếu thủy khẩu xuất ra ở phía Đông (Sửu).

4. Long đến từ phía Đông, nếu thủy khẩu xuất ra ở phía Tây (Mùi).

Và cũng cho ta biết:

1. Long từ phía Nam đến là Hỏa cuộc long.

2. Long từ phía Bắc đến là Thủy cuộc long.

3. Long từ phía Tây đến là Kim cuộc long.

4. Long từ phía Đông đến là Mộc cuộc long.

Và cũng cho ta biết:

1. Hỏa cuộc thì

a. Long từ Ất đi xuôi chiều

b. Hay từ Bính đi ngược chiều.

2. Thủy cuộc long thì:

a. Long từ Đinh đi xuôi chiều

b. Hay từ Nhâm đi ngược chiều.

3. Kim cuộc long thì:

a. Long từ Đinh đi xuôi chiều

b. Hay từ Canh đi ngược chiều

4. Mộc cuộc long thì:

a. Long từ Quý đi xuôi chiều.

b. Hay từ Giáp đi ngược chiều.

Trên đây mới về Long của Thủy pháp, còn nếu nói cả Long lẫn Thủy của Thủy pháp thì sẽ xin trình bày ở Phụ lục 3.

Tiếp theo ta hãy khai triển phần Thủy khẩu trong bài Thủy khẩu.

1. Địa hữu thủy khẩu, ngoại minh đường thủy khẩu phóng dã.

Cuộc đất phải có thủy khẩu. Thủy khẩu là nơi nước phóng (từ nội cuộc) ra ngoài minh đường vậy.

2. Sở quý chi huyền khuất khúc, tế tiểu bất thông chu, quan tỏa ư ngoại.

Điều đáng quý là nước chảy chữ chi, chữ huyền, quanh co khuất khúc, nhỏ bé, không đi lọt cái thuyền, đóng khóa ở ngoài (thủy khẩu).

3. Hoặc triển kỳ nhi khứ, hoặc toàn nhiễu nhi lưu.

Hoặc như mở cờ mà đi, hoặc quanh quẩn mà chạy.

4. Sở kỵ giả, quảng trực xuất

Điều đáng kỵ là (nước thủy khẩu) rộng mà chạy thẳng.

5. Nhược cầm hình, thú hình, du ngư, gia ngư, tẩm bút, quái thạch, thử đại, quý chi địa giả.

Nếu có (then khóa ở thủy khẩu) hình con cầm (nhỏ), con thú (lớn), cá bơi, cá lội hoặc quái thạch tấm bút (bút chấm nước) đó là đất đại quý vậy.

Tìm hiểu về Tiên Thiên Thủy Pháp – Long Môn Bát Cục

 Thủy Pháp là một phần kiến thức cực kỳ trọng yếu trong môn Phong Thủy Học. Tuy nhiên, đây cũng chính là phần rắc rối nhất trong bộ môn Phong Thủy Học.

Khi xem Phong thủy không thể bỏ qua phần Thủy Pháp, '' Sơn quản nhân đinh, thủy quản tài'' - thậm chí thủy còn phá tài phá đinh vì vậy việc xét tới thủy pháp khi định cục và tạo bố cục phong thủy rất quan trọng cho cả phong thủy âm trạch và dương trạch.

Xin phép hôm nay được chia sẻ phân tích Tiên Hậu Thiên Thủy Pháp, hay còn được gọi bằng 1 cái tên rất hay là Long Môn Bát Cục…

Thập Nhị Vị Long Môn Thủy Pháp

Tam Nguyên Long Môn Bát cục – Càn Khôn Quốc Bảo là pháp nằm trong Tứ Đại Thủy Pháp của Địa Lý Phong Thủy, gồm :

  • Tam Hợp thủy pháp, hay còn gọi là Thủy Pháp Trường Sinh (Trường Sinh Thủy Pháp)
  • Tam Nguyên Thủy Pháp, hay còn gọi là Trung Thiên Thủy Pháp – Tiên Hậu thiên thủy pháp – Long Môn bát cục – Càn khôn quốc bảo.
  • Phụ tinh thủy pháp.
  • Tự nhiên thủy pháp, hay còn gọi là Dương công thủy pháp.

Trong đó, nguyên tắc của Tam nguyên thủy pháp là dựa vào phương vị lai khứ của thủy trên 24 sơn đối ứng với phương vị của Tiên thiên quái và Hậu thiên quái mà định cát hung.

Long Môn Bát Cục – Tam Nguyên Thủy Pháp

Muốn luận Tam Nguyên thủy pháp, trước hết phải an 12 vị, xin giới thiệu cụ thể cách an như sau :

Tiên thiên vị

Trước tiên hãy xem tọa nhà thuộc quẻ nào (Hậu thiên), quẻ này tại tiên thiên thì cư ở phương vị nào, phương vị đó là phương vị Tiên thiên của nhà.

Tiên thiên chủ nhân đinh

Hậu thiên vị

Trước tiên xem toạn nhà thuộc quẻ nào (Hậu thiên), quẻ này tại tiên thiên thì cư ở phương vị nào thuộc quẻ nào, tìm phương vị tại hậu thiên bát quái, phương vị đó là phương vị hậu thiên của nhà.

Hậu thiên chủ thê tài.

Tân vị

Trước tiên xem hướng nhà tại quái nào (hậu thiên), quái này tại tiên thiên cư phương vị nào, phương vị đó là tân vị của nhà

Tân – Khách ứng nữ nhân, âm, họ ngoại, dịch khách.

Khách vị

Trước tiên xem hướng nhà tại quái nào (hậu thiên), quái này tại tiên thiên cư phương vị nào thuộc quái nào, tìm phương vị tại hậu thiên bát quái, đó là phương vị khách vị của nhà.

Tân – Khách ứng nữ nhân, âm, họ ngoại, dịch khách.

Thiên kiếp vị

Trước tiên xem tọa sơn thuộc quẻ nào (hậu thiên), lại dựa vào phương pháp đã thuật ở trước tìm ra Hậu thiên vị, lại lấy cái quẻ hậu thiên này làm chủ, lại theo phương pháp thuật ở trước tìm Hậu thiên vị, được vị trí quái, tức là vị trí Thiên kiếp của tọa sơn.

Thiên kiếp thủy là ác thủy

Địa hình vị

Địa hình vị cùng với Thiên kiếp vị đều là vị trí chếch bên cạnh phương đối diện tọa sơn, đối xứng nhau, nếu 1 cái chếch bên trái thì cái kia ắt chếch bên phải. Lấy nhà tọa Khảm làm ví dụ, quẻ Tốn chếch bên trái tại đằng trước là Thiên Kiếp, thì quẻ Khôn là Địa hình vị.

Địa hình vị là ác thủy.

Án kiếp vị

Án kiếp vị còn gọi là Chu tước vị, tức là quẻ ở hướng Minh đường, như tọa Khảm sơn, thì Ly quái là Án kiếp vị.

Án kiếp thủy nên xuất, không nên tới.

Phụ quái vị

Phụ quái là đem Tọa sơn, tiên thiên, hậu thiên, thiên kiếp – địa hình – án kiếp, tân-khách vị taatr cả 7 quái trừ đi, còn dư lại 1 quái chính là Phụ quái vị. Nếu 8 quẻ đều chiếm hết, thì cùng vị trí với Địa hình vị.

Phụ quái là Linh khí phụ trợ, quý nhân thủy, nên đến không nên đi,

Khố trì vị

Khố trì vị tức là Tài Khố, tác dụng để luận tài phú nhiều ít, Khố trì cần nhất alf “đăng thanh cận huyệt” cận huyệt thì phát viễn.
Sơn Khố trì vị của các quẻ như sau :

  • Càn quái sơn ( Tuất – Càn – Hợi) : Khố trì tại Cấn
  • Đoài quái sơn (Canh – Dậu – Tân) : Khố trì tại Quý
  • Ly quái sơn (Bính – Ngọ – Đinh) : Khố trì tại Tân
  • Chấn quái sơn (Giáp – Mão – Ất) : Khố trì tại Nhâm
  • Tốn quái sơn (Thìn – Tốn – Tỵ) : Khố trì tại Khôn
  • Khảm quái sơn (Nhâm – Tý – Quý) : Khố trì tại Khôn
  • Cấn quái sơn (Sửu – Cấn – Dần) : Khố trì tại Càn
  • Khôn quái sơn (Mùi – Khôn – Thân) : Khố trì tại Tốn

Thủy Khẩu vị

Thủy khẩu cũng gọi là Chính Khiếu vị, Xuất thủy phép tắc :

a. Thủy thích theo Thiên Can lưu xuất, kỵ địa chi lưu xuất. Bởi vị Địa chi mỗi năm gặp tuế chi lại thành hình sát (Thái Tuế). Thiên Can thì không bị xung sát này. 24 sơn thiên can gồm : Bát Can – Giáp, Ất, Bính, Đinh, Canh, tân, Nhâm, Quý. Tứ ngung quái : Càn Khôn Cấn Tốn. Tổng là 12 sơn, 12 địa chi gồm : Tý sửu dần mão thìn tỵ ngọ mùi thân dậu tuất hợi.

b. Tiên thiên vị, Hậu thiên vị, Phụ quái vị, Địa Hình vị đều không thể lưu xuất, Tân khách vị (xem sinh nam, sinh nữ thủ xá), Thiên kiếp, Án kiếp vị cần xuất không cần nhập. Chỗ khẩu thủy lưu xuất ứng với Chính Khiếu vị. Tổng hợp lại, Bát Can và Tứ Ngung cộng 12 sơn là có thể đem làm nơi lưu xuất thủy. 12 địa chi không được lưu xuất.

Vị trí Chính Khiếu tại các Sơn quái như sau :

  • Càn quái sơn ( Tuất – Càn – Hợi) : Chính Khiếu tại Tốn
  • Đoài quái sơn (Canh – Dậu – Tân) : Chính Khiếu tại Giáp
  • Ly quái sơn (Bính – Ngọ – Đinh) : Chính Khiếu tại Tân
  • Chấn quái sơn (Giáp – Mão – Ất) : Chính Khiếu tại Càn
  • Tốn quái sơn (Thìn – Tốn – Tỵ) : Chính Khiếu tại Cấn
  • Khảm quái sơn (Nhâm – Tý – Quý) : Chính Khiếu tại Tốn
  • Cấn quái sơn (Sửu – Cấn – Dần) : Chính Khiếu tại Khôn
  • Khôn quái sơn (Mùi – Khôn – Thân) : Chính Khiếu tại Giáp.

Tiểu Bát Môn (biến cục)

Tiểu bát Môn là chỉ tình hình Tọa-Hướng xuất hiện kiêm quái, lấy phương hướng thuận chiều kim đồng hồ mà xem. Chữ thứ 3 trong mỗi quẻ kiêm với chữ thứ nhất trong quẻ sau, gọi là Tiểu bát môn.

  • Tọa Ất kiêm Thìn : Nội phóng Càn, chuyển Nhâm, kỵ phóng Tân phá Hậu Thiên, tức trưởng phòng phá tài hoặc tái hôn.
  • Tọa Tân kiêm Tuất : Thủy xuất Tốn – Ất – Giáp, phóng Ất thủy là thượng cát, còn ngoại cục cần Chuyển Cấn
  • Tọa Tỵ kiêm Bính : Phóng Nhâm thủy thượng cát, Ngoại cục thủy yếu chuyển Cấn, kỵ phóng Canh, tân, thủy chuyển Khôn thời, Ứng lập Nhâm hướng.
  • Tọa Hợi kiêm Nhâm : phóng Tốn thượng cát, nội cục phóng Bính, không thể sáng sủa được.
  • Tọa Đinh kiêm Mùi : Nội phóng Khôn, Ngoại chuyển Cấn
  • Tọa Quý kiêm Sửu : Nội phóng Đinh, ngoại chuyển Bính, phóng Ất thủy bại tam phòng. Phóng Khôn tài cục phá, Trưởng phòng tăng hội tái hôn, Quý-Đinh-Sửu-Mùi kỹ thủy lưu Đông, Thủy lưu Tây tắc vô sự.
  • Tọa Thân kiêm Canh : Thủy xuất Cấn Giáp.
  • Tọa Dần kiêm Thân : Thủy xuất Tân – Càn.

Diệu sát vị

Diệu sát chia ra làm Chính Diệu, Phản diệu, Địa diệu : khắc tức là sát, Bát sát : Lấy nghĩa ở bát quái ngũ hành. Dùng cái Khắc Ta trong quẻ. Diệu sát ca quyết “Khảm long khôn thỏ chấn sơn hầu, Tốn kê Càn mã Đoài xà đầu, Cấn Hổ lý trư vi diệu sát, trạch phần phùng chi nhất tề hưu”. Diệu sát phương tối kỵ hữu thủy, lộ xung tài, tiêm vật bức cận, thất giác….

Chính diệu sát

Là Bát thuần quái chi quan quỷ hào, khắc ta là quan quỷ.

  • Càn – Chính diệu sát tại Ngọ
  • Đoài – Chính diệu sát tại Tỵ
  • Ly – Chính diệu sát tại Hợi
  • Chấn – Chính diệu sát tại Thân
  • Tốn – Chính diệu sát tại Dậu
  • Khảm – Chính diệu sát tại Thìn
  • Cấn – Chính diệu sát tại Dần
  • Khôn – Chính diệu sát tại Mão

Phản diệu sát

Phản diệu sát tức là Tiên thiên quái chi quan quỷ hào.

Trước hết xem quẻ tiên thiên tại tọa sơn thuộc phương nào, tương ứng với hậu thiên thuộc quẻ nào, sau đó đối chiếu Bát sát diệu ca quyết tìm phản diệu sát. Ví dụ Tọa Khảm hướng Ly, vị trí quẻ Khảm tiên thiên tại Tây phương, Phương tây là vị trí quẻ Đoài hậu thiên, đối chiếu ca quyết đc Tỵ là Phản diệu sát.

Địa diệu sát : Địa diệu sát là Hậu thiên quái chi quan quỷ hào.

Trước tiên xem quẻ Hậu thiên của Tọa sơn ở Phương nào, tương ứng với quẻ tiên thiên nào, Lại đối chiếu với ca quyết để tìm Địa sát diệu. Ví dụ tọa Khảm, hướng Ly, Quẻ hậu thiên Khảm tại phương Bắc, Phương Bắc lại là quẻ Khôn tiên thiên, đối chiếu với ca quyết, Khôn quái quan quỷ hào ở Mão, Mão là địa diệu sát.


Tản mạn về Âm trạch phong thuỷ - Tam hợp phái.

 Ngày nay theo xu hướng của xã hội, lĩnh vực phong thuỷ Việt Nam đã có những bước phát triển rực rỡ, rất nhiều người nghiên cứu và ứng dụng thuật phong thuỷ vào cuộc sống. Thật không ngoa khi nói rằng bây giờ đi năm bước sẽ gặp một thầy phong thuỷ.

Phong thuỷ là gì, đã có quá nhiều định nghĩa và mọi người đều hiểu nôm na phong thuỷ chính là...phong thuỷ, vậy là đủ.
Phong thuỷ vốn có 2 ứng dụng chính, đó là phong thuỷ Âm trạch ( nguyên tắc an táng người mất ) và phong thuỷ Dương trạch ( nguyên tắc bài trí chỗ ở cho người sống ). Và khởi nguyên của thuật phong thuỷ chính là Âm trạch với tiêu biểu là tác phẩm Táng Thư của tác giả Quách Phác đời nhà Tấn - Trung Hoa biên soạn. Sau này lĩnh vực phong thuỷ mới phát triển Dương trạch. Bởi vậy nên khá là buồn cười khi có nhiều người tin vào tác dụng của phong thuỷ trong Dương trạch nhưng lại không hề tin vào tác động của Âm trạch đến thế hệ sau. Riêng người viết tin rằng Âm trạch và Dương trạch là hai mặt của một đồng tiền. Khi chúng ta đã tin rằng đây chính là đồng tiền có giá trị thì chúng ta không thể phủ nhận bất cứ mặt nào của đồng tiền cả, trừ khi hoàn toàn không công nhận đồng tiền đó.

Những câu đầu tiên của Táng Thư đã viết khá rõ ràng " Táng giả, thừa sinh khí dã " " Nhân thụ thể vu phụ mẫu, bản hài đắc khí, di thể thụ ấm ". Táng thư đã nói lên rằng cha mẹ sinh ra con cái thì tất có sự tương thông về nguyên khí, cơ thể cha mẹ khi hấp thu được tinh hoa linh khí sông núi thì sẽ để lại phúc trạch cho con cái...Còn trong Thanh Nang Áo Ngữ cũng có nói rằng khí ảnh hưởng tới kết quả, nơi yên nghỉ tốt của người chết sẽ đem lại ảnh hưởng tốt cho con cháu...
Theo cổ văn thì chữ Táng là giấu đi. Theo tượng hình thì Táng là hình cỏ bên trên đất bên dưới và người chết ở giữa. Trong phong thuỷ thì nó dùng để chỉ Long Huyệt Sa Thuỷ Hướng - Ngũ quyết. Trong đó Long và Thuỷ là hai yếu tố rất quan trọng trong Âm trạch.
Tầm long : từ này hầu như là câu cửa miệng của tất cả những người có liên quan đến phong thuỷ, nên có lẽ không cần định nghĩa. Việc xác định được Lai long và Long nhập thủ là rất quan trọng trong việc lập hướng của Tam hợp phái. Một trong những điều kiện hàng đầu của Tam hợp là phải xét đến yếu tố Tịnh Âm Tịnh Dương hay còn gọi là Thuần âm thuần dương của Long và hướng, Dương long lập Dương hướng, Âm long lập Âm hướng. Mối quan hệ giữa long và hướng có thể được ứng dụng bởi các nguyên lý nạp giáp, tam hợp, tiên hậu thiên...và tất nhiên long và hướng cần phải tránh phạm Bát sát.
Lập hướng địa chi sẽ tiếp nhận khí mạnh mẽ hơn thiên can, và tất nhiên tới những năm Thái tuế hoặc Tam sát thì hướng của địa chi cũng sẽ bị ảnh hưởng hơn. Trong mối quan hệ giữa long và toạ hướng, tuyệt đối phải tránh khí trực xung từ Long đến toạ hướng huyệt hay còn gọi là Phá não sát khí. Thường thì nhập Nhĩ là tốt nhất, thứ đến nhập Yêu...
Thuỷ pháp trong Tam hợp âm trạch rất quan trọng, người ta tin rằng sự tác động của thuỷ đến ngôi mộ sẽ sớm hơn là sự tác động của long.
Tam hợp phái sử dụng 3 vòng Địa Nhân Thiên bàn, trong đó Địa bàn chính châm dùng để nhận long lập hướng, Nhân bàn trung châm khán sa, Thiên bàn phùng châm nạp thuỷ.
Tam hợp phái sử dụng vòng tràng sinh trong ứng dụng thuỷ pháp " Tràng sinh, mộc dục, quan đới, lâm quan, đế vượng, suy, bệnh, tử, mộ, tuyệt, thai, dưỡng ". 12 cung vị này mang ý nghĩa một vòng tuần hoàn của đời người từ khi sinh ra đến lúc mất đi. Căn cứ vào chiều chảy thuận nghịch tả hữu của nước, các nhà phong thủy Tam hợp sẽ quyết định lập cục của ngôi mộ theo tứ đại cục và 8 loại khí ( giáp mộc khí - ất mộc khí - bính hoả khí - đinh hoả khí...)...
âm trạch tam hợp phái
minh đường dung vạn mã

Nói đến phong thuỷ chắc chắn là phải nói đến thực địa. Khi tới một cuộc đất, long tới ra sao, thuỷ chảy thế nào, cùng với những thông số về vong mệnh, thầy phong thủy sẽ quyết định việc lập hướng phân kim nhằm thu sơn xuất sát đem lại kết quả tốt nhất cho ngôi âm trạch.
Tuy nhiên một trong những điều làm đau đầu người thực hành, nhất là những người tự học tự đọc theo sách đó chính là sự khác biệt giữa sách và thực tế. Điều gì sẽ xảy ra nếu tại khu vực đó không nhìn thấy thuỷ ? Điều gì sẽ xảy ra khi thuỷ ở xa tít tận đẩu tận đâu trên google map ? lúc này khái niệm đại cục và trung cục, tiểu cục sẽ lý giải được. Ngoài ra thuỷ trong phong thuỷ còn có thể chia ra thành Hư thuỷ và Thực thuỷ.
Thuỷ chảy từ chỗ cao đến chỗ thấp, nước chảy chỗ trũng nên dựa theo độ cao thấp của địa hình chúng ta cũng xác định được chiều hướng của Hư thuỷ.
Giữa Hư thuỷ và Thực thuỷ cần phải nhớ những điều kiện sau :
1. Thực thuỷ luôn luôn tác động mạnh hơn hư thuỷ.
2. Thuỷ nào gần hơn sẽ tác động nhanh mạnh hơn.
Xác định được long và thuỷ, tiếp đó sử dụng nhân bàn để xem sa, cẩn thận tính toán 120 kim long của địa bàn và thiên bàn để tìm ra châu bảo. Lập cục phóng thuỷ cho mộ, xác lập vị trí long thần hậu thổ. Cuối cùng là tuyển trạch bổ long phù sơn, chọn ngày giờ tốt lành cho công việc.
Có thể nói tiến hành công việc Âm trạch là rất phức tạp bởi phải đáp ứng được rất nhiều tiêu chí - quy tắc. Thật nguy hiểm khi ngày nay có một bộ phận không nhỏ thầy bà chỉ quan tâm đến tuổi người mất hợp hướng nào theo bát trạch để quyết định việc làm mộ. Ôi chẳng thà không biết không theo không tin thì cứ tuỳ tâm mà làm, nhưng một khi đã tin, đã mời thầy làm phong thuỷ thì phải tuyệt đối cẩn thận tránh việc giao trứng cho ác. 

Riêng trong lĩnh vực âm trạch, mong các thầy đừng lấy tiêu chí " khả năng đến đâu làm đến đấy ", mà phải lấy tiêu chí " phương pháp chuẩn, kỹ thuật chuẩn, đồ nghề đáng tin cậy " làm đầu để không phải gánh nghiệp quả xấu.
Xin kết thúc vài dòng tản mạn tại đây. Trong khuôn khổ một bài viết thì khó mà trình bày chi tiết hơn. Hi vọng vào buổi offline sắp tới, nếu điều kiện cho phép Hưng Nguyễn sẽ trình bày cụ thể hơn về Âm trạch trong cuộc sống hiện đại.

Huyền Không Lục Pháp và Huyền Không Tử Bạch Quyết.

 Huyền Không Lục Pháp của đại sư Đàm Dưỡng Ngô vốn là 6 lý luận của Tam Nguyên Huyền Không Phái, trong đó Huyền Không - Thư Hùng - Kim Long là lý luận nền tảng, Ải tinh - Thành môn là ứng dụng thực tế để tìm giải pháp tối ưu nhất, cuối cùng là pháp Thái tuế dùng để phán đoán thời gian xảy ra cát hung của ngôi nhà.

tử bạch phi tinh

Một điều đáng nói đến rằng trong phần Thái Tuế này chính là nói đến pháp Tử Bạch Phi Tinh trong Tử Bạch Quyết - phần thượng ( lưu ý rằng Tử Bạch Quyết mà Thẩm Thị Huyền Không thường nhắc tới chỉ là phần hạ mà thôi ). Tương truyền rằng Tử Bạch Quyết ra đời vào thời nhà Nguyên 1206-1368, và lần đầu tiên được in thành sách là vào năm 1748.
Thái Tuế Pháp của Huyền Không Lục Pháp dùng để xem xét thời gian vận hành tức là " Thiên thời ". Về cơ bản, pháp này trú trọng đến năm Thái tuế - Tam hợp - Hình xung của 24 sơn vị tương ứng với thời gian. Dùng pháp Thái Tuế cùng Tử Bạch Phi tinh sẽ lý giải được nhiều điều hung hoạ tại sao không ứng với Tử Bạch của Thẩm Thị, hoặc không ứng hoạ do lưu niên hung tinh gây ra...
Thái Tuế tức là năm hiện tại. Ví dụ như năm nay Bính Thân thì Bính Thân là Thái Tuế. Trong dụng pháp Thái tuế, đem Thái tuế nhập trung cung phi thuận. Ngũ hành của mỗi năm Can Chi sẽ tương ứng với Ngũ Hành Nạp Âm.
huyền không lục pháp
huyền không lục pháp

Lấy ví dụ một ngôi nhà toạ Bắc hướng Nam, cửa mở tại sơn Ngọ. Theo Huyền Không Lục Pháp và loan đầu ngoại cảnh thì đây là một ngôi nhà thịnh vượng trong vận 8 - toạ Chính hướng Linh.
Vào năm Kỷ Sửu 2009, theo pháp Thái tuế chúng ta lấy Kỷ sửu nhập trung cung, Quý Tỵ đến hướng, Giáp Ngọ đến toạ. Lưu ý Giáp Ngọ ngũ hành nạp âm thuộc hành Kim.
Năm 2009 sao Cửu tử nhập trung cung, niên tinh Ngũ hoàng đại sát đến cung Khảm, thông thường tất cả những ngôi nhà toạ Khảm đều coi như cực kỳ cấm kỵ việc động thổ sửa sang trong suốt năm này. Tuy nhiên Tử bạch phi tinh đã nói cho ta biết vào năm 2009 thì hành nạp âm tại cung Khảm là Kim - tương sinh với hành bản cung Khảm thuỷ, đó là một quan hệ sinh vượng. Trong trường hợp này, Ngũ hoàng ngự tại nơi sinh vượng nên không thể gây tác hại, do đó nên ngôi nhà này hoàn toàn có thể động thổ sửa chữa trong năm 2009.
Trên đây chỉ là một phần rất nhỏ ứng dụng của Tử Bạch Quyết, không kể 81 kết hợp sao, Tử Bạch quyết còn bao gồm 28 sao - Bát môn Kỳ Môn...rất rất nhiều.
Sau này có dịp sẽ chia sẻ ứng dụng Tử Bạch Phi Tinh phối hợp với Huyền Không Lục Pháp.

Giới thiệu về Huyền Không Lục Pháp Phong Thuỷ

Giới thiệu về Huyền Không Lục Pháp Phong Thuỷ và trường phái Huyền Không Vô Thường Phái Đàm Thị - Đàm Dưỡng Ngô.

Nhắc đến học phái Huyền không phong thủy, thông thường là nói về những phái được mọi người biết đến như Chương Trọng Sơn, Thẩm Trúc Nhưng; pháp ấy lấy số nguyên vận nhập trung cung, chia sơn, hướng lưỡng bàn, dựa theo sự phân định âm – dương thuận nghịch và sự dịch chuyển phương vị của Cửu Tinh trong Lạc Thư, xem thế núi và hướng sao chầu về nó để biết được là sinh vượng hay suy tử, phối hợp với hình thế loan đầu để luận cát – hung. Trong học phái này do có sự khác biệt về việc truyền thừa và những thao tác trong thực tế, nên cũng có thể phân thành một số biệt phái, nhưng tổng thể vẫn là nói về sự phi động của các số trong Cửu cung, do đó cũng có người gọi học phái này là Huyền Không Phi Tinh Phái.
Ngoài Phi tinh phái ra, còn đem Dịch Kinh Lục Thập Tứ Quái (64 quẻ kép trong Kinh Dịch) vận dụng trong Kham Dư phong thủy, dựa theo những mối quan hệ như: sinh vượng – suy tử, sinh nhập – khắc nhập, sinh xuất – khắc xuất…, để luận cát – hung, thường gọi phái đó là Huyền Không Đại Quái Phái.
Đàm Dưỡng Ngô, người Vũ Tiến, Giang Tô (Trung Quốc), sinh ở triều Thanh, năm Quang Tự thứ 16 (năm 1890). Năm 19 tuổi, Đàm Dưỡng Ngô nghe lời cha, theo Dương Cửu Như học tập Huyền không phong thủy – Phi tinh phái, mà Dương Cửu Như lại là con cháu họ ngoại của Chương Trọng Sơn, cho nên truyền thừa của Huyền không phong thủy chỉ có một mình phái của Chương Trọng Sơn.
Đàm Dưỡng Ngô học tập Huyền không phong thủy – Phi tinh phái, đến sau năm 30 tuổi, tức năm 1920, thì thành lập “Tam nguyên cơ thuật nghiên cứu xã” (Trung tâm nghiên cứu cơ thuật Tam nguyên) ở Thượng Hải, liên tục cho xuất bản các sách Biện chứng tân giải, Đại Huyền không thực nghiệm, Đại Huyền không lộ thấu…. Ông một lòng ra sức nghiên cứu và tuyên truyền cho học lý của Huyền không phong thủy, khiến cho lý luận về Huyền không của họ Chương được nhiều người biết đến, đạt được sự coi trọng của giới Kham Dư phong thủy. Sau Đàm Dưỡng Ngô, các danh gia thuộc dòng Kham Dư phong thủy cũng lần lượt cho phát hành các sách có liên quan, như: Thẩm thị Huyền không học do con trai của Thẩm Trúc Nhưng – Thẩm Điệt Dân viết, Vinh Bá Vân soạn cuốn Nhị trạch thực nghiệm, Vưu Tích Âm có cuốn Trạch vận tân án… Những cuốn sách này được phát hành công khai, góp phần giúp cho lý luận của Phi tinh phái trong một thời gian ngắn trở thành học phái nổi tiếng trong Huyền không phong thủy.
Nhưng đến mùa hè năm 1929, Đàm Dưỡng Ngô có gặp đạo trưởng Lý Kiền Hư ở huyện Miễn Trì, Hà Nam (Trung Quốc), được vị đạo trưởng truyền thụ cho một kiểu lý luận khác về Huyền không phong thủy. Đàm Dưỡng Ngô sau này cho rằng đây mới chính là chân quyết thực thụ của Huyền không phong thủy.
Đàm Dưỡng Ngô bỗng nhiên như được khai sáng. Trong bài viết Vi học thuật kế vi đạo đức kế được đăng trên báo chí vào tháng 3/1930, Đàm Dưỡng Ngô đã công khai thừa nhận việc áp dụng Huyền Không Phi Tinh vào Âm trạch là sai lầm. Ông gửi lời xin lỗi đến những khách hàng mà ông đã thực hiện Âm trạch bằng Huyền Không Phi Tinh và hứa sẽ thực hiện lại công việc Âm trạch nếu khách hàng yêu cầu, đồng thời ông đăng thông báo tuyển sinh, dùng phương thức hàm thụ để truyền dạy lý luận mới về Huyền không lục pháp, cũng bắt tay vào viết cuốn Huyền không bản nghĩa, một lần nữa chú giải các thiên kinh văn về địa lý biện chứng.
Lý luận Huyền không lục pháp mà Đàm Dưỡng Ngô đắc ngộ từ đạo trưởng Lý Kiền Hư có phải là chân quyết của Huyền không phong thủy hay không, ở đây tạm thời không bàn đến, nhưng chính tinh thần cầu thiện trong học thuật và dũng khí dám thừa nhận sai lầm của Đàm Dưỡng Ngô đã khiến mọi người phải nể phục.
Tên gọi “Huyền không lục pháp” kì thực không phải do họ Đàm sáng lập, trong sách Địa lý tiểu bổ do Lưu Kiệt (triều Thanh, năm Đồng Trị thứ 8 – tức năm 1869) sáng tác đã thấy xuất hiện từ “Lục pháp” và giải thích từ này theo nghĩa: tổng hợp nội dung của các kinh văn về địa lý biện chứng như Thiên ngọc, Thanh nang, Đô thiên bảo chiếu…, trải qua phân loại và quy nạp, tổng kết lại thành sáu điểm chính: Huyền không, Thư Hùng, Kim Long, Ải Tinh, Thành Môn, Thái Tuế. Đàm Dưỡng Ngô rất sùng bái cuốn sách này và vận dụng sáu mục lớn trong sách làm đại cương cho lập luận của mình.
“Lục pháp” trong Địa lý tiểu bổ của Lưu Kiệt hay trong Huyền không bản nghĩa của Đàm Dưỡng Ngô, kì thực là đều là một loại giải thích cho nội hàm các kinh điển địa lý biện chứng, cùng với một vài yếu quyết thao thác phong thủy trong thực tế. Dựa trên sự khác nhau về nguyên lý căn bản, lý luận Huyền không lục pháp của Đàm Dưỡng Ngô so với lý luận của hai họ Chương, Thẩm trong Phi tinh phái và lý luận của Đại quái phái về sử dụng 64 quái đã hình thành sự khác nhau rõ rệt, đó cũng chính là điểm đặc sắc về lý luận mà chỉ có mình phái Đàm Dưỡng Ngô có. Điểm đặc biệt của Huyền Không Lục Pháp Vô Thường Phái là áp dụng được trong cả Âm trạch và Dương trạch.
Hưng Nguyễn may mắn được theo học Huyền Không Lục Pháp Vô Thường Phái từ sư phụ Master Leyau ( Lưu Dục Tài ) tại học viện Central Academy of Fengshui CAFS Malaysia. Sư phụ Lưu Dục Tài là truyền nhân duy nhất hiện nay của dòng truyền thừa Vô Thường Đàm Thị từ sư tổ Đàm Dưỡng Ngô truyền xuống cho pháp sư Diễn Bản, pháp sư Hư Minh và bây giờ là sư phụ Lưu Dục Tài. Mong rằng sư phụ luôn khoẻ mạnh để truyền lửa kiến thức chính tông Vô Thường Phái cho các thế hệ kế tục ngày càng phát triển học thuật phong thuỷ chính tông.
Hưng Nguyễn tổng hợp từ tư liệu bản phái Vô Thường và một số tài liệu nội bộ sẵn có, đặc biệt cảm ơn thầy Nguyên Vũ đã hỗ trợ tư liệu cho Hưng Nguyễn.
Còn nữa...

THỦ TỤC LỄ NHẬP TRẠCH

 Trong quá trình song hành cùng nhiều khách hàng, Phongthuythuatso.vn nhận thấy, nhiều khách hàng khá bối rối trong việc thực hiện các thủ tục lễ nhập trạch, hoặc quá xuề xòa với thủ tục truyền thống này. Thủ tục dành cho lễ nhập trạch khá đa dạng và tùy vào hoàn cảnh của từng gia đình, từng địa phương, vùng miền.

Do đó, trong bài viết này, Phongthuythuatso.vn cố gắng tổng hợp các bước hướng dẫn đơn giản, chi tiết, dễ thực hiện nhất dành cho gia chủ bận rộn nhưng vẫn có ý thức gìn giữ phong tục đẹp.
 

1. Đồ lễ, vật dụng

Đồ lễ mâm thần linh, gia tiên:
Phong thuỷ làm nhà
+ 1 đĩa ngũ quả, 1 đĩa xôi gấc đỏ, 1 con gà trống luộc
+ 10 bông hồng đỏ cắm vào lọ, 1 bông hồng đỏ để ngang miệng con gà
+ 01 bao thuốc lá mở ra
+ 01 bát nước lọc, 5 chén rượu, 5 chén trà, 1 chai rượu trắng to
+ Vàng mã: 1000 vàng đại thiếc, 1000 vàng hoa, 1000 vàng cô, 10 lễ tiền vàng lá, 01 bộ quần áo thần linh, 01 ông ngựa đỏ (hoặc 5 ông ngựa 5 màu), 05 mũ 5 màu xanh, đỏ, tím, vàng, trắng
+ 02 cây nến (đèn dầu, hoặc 2 đèn nến điện đỏ)
+ 05 thẻ hương bột màu vàng tươi (không dùng hương bột màu đen)
 
Đồ lễ mâm chúng sinh:
01 trăm bộ quần áo chúng sinh, 20 lễ tiền vàng lá, 500 hoặc 1000 tiền chúng sinh, tiền lẻ thật, 5 bát cháo + 5 cái thìa, 5 gói bỏng, 5 bắp ngô, 5 củ khoai, 5 củ sắn, 5 gói bim bim, bánh kẹo
* 1 đĩa gồm 1 nửa gạo 1 nửa muối để rắc ra đường khao chúng sinh
 
Vật dụng:
+ Bài vị, bát nhang  (nếu có)
+ Chiếu hoặc đệm đang sử dụng (nếu không ở luôn thì phải ngủ 1 đêm ở nhà mới)
+ Bếp
+ Chổi quét nhà, để vào góc cửa chính
+ Để 10 kg gạo tẻ, 3 gói muối vào bếp
Đun 1 bát nước hàn long mạch gồm ngũ vị hương (loại để lễ không phải loại để ăn, mua ở hàng mã) và hàn the, nước gạo nếp
 

2. Thời điểm tiến hành lễ nhập trạch

Tiến hành trước khi dọn đồ vào nhà. Ngày giờ thì chủ nhà có thể xem và chọn trước.
 

3. Các bước làm lễ nhập trạch

+ Đầu tiên, mang vào nhà mới vật dụng (mang tính tượng trưng) 
+ Lễ vật được để lên bàn, mâm và kê theo hướng đẹp với gia chủ (tốt nhất là hướng sẽ đặt ban thờ, nếu đã có ban thờ thì đặt luôn lên ban thờ)
+ Tự tay gia chủ thắp nhang vào một bát nhang. Nếu nhà bạn chưa bốc bát hương thì có thể làm tạm thời (bằng cốc gạo hoặc 1 khoanh cây chuối..v...v…). Việc bốc bát hương và hỏi vị trí đặt bàn thờ (hướng nào, chiều cao từ mặt đất lên, chiều ngang, chiều dài của bàn thờ...) thì có thể làm sau. Việc này nên chùa để hỏi cho cẩn thận, và cũng nhờ nhà chùa bốc bát hương.
+ Thắp hương hành lễ và đọc văn khấn lễ nhập trạch gồm hai phần: Văn khấn Thần linh và Văn khấn cáo yết gia tiên.
 
VĂN KHẤN THẦN LINH
Nam mô a di Đà Phật!
Nam mô a di Đà Phật!
Nam mô a di Đà Phật!
- Con lạy chín phương Trời, mười Phương Chư Phật, Chư Phật mười phương.
- Con kính lạy Hoàng thiên Hậu Thổ chư vị Tôn thần.
- Con kính lạy Các ngài Thần linh bản xứ cai quản trong khu vực này.
Tín chủ (chúng) con là:……………………………………….
Hôm nay là ngày….. tháng…. năm…. tín chủ con thành tâm sắm lễ, quả cau lá trầu, hương hoa trà quả, thắp nén tâm hương dâng lên trước án. Trước bản toạ chư vị Tôn thần tín chủ con kính cẩn tâu trình:
Các vị Thần linh,
Thông minh chính trực,
Giữ ngôi tam thai
Nắm quyền tạo hoá
Thể đức hiếu sinh
Phù hộ dân lành
Bảo vệ sinh linh.
Nêu cao chính đạo.
Nay gia đình chúng con hoàn tất tân gia, chọn được ngày lành dọn đến cư ngụ, phần sài nhóm nhóm lửa, kính lễ khánh hạ. Cầu xin chư vị minh Thần cho chúng con được nhập vào nhà mới tại:………………………………. và lập bát nhang thờ chư vị Tôn thần. Chúng con xin phép chư vị Tôn thần cho rước vong linh Gia tiên chúng con về ở nơi này để thờ phụng. Chúng con cầu xin chư vị minh Thần gia ân tác phúc, độ cho gia quyến chúng con an ninh, khang thái, làm ăn tiến tới, tài lộc dồi dào vạn sự như ý, vạn điều tốt lành.
Tín chủ lại mời các vong linh Tiền chủ, Hậu chủ ở trong nhà này, đất này xin cùng về đây chiêm ngưỡng Tôn thần, thụ hưởng lễ vật, phù hộ cho tín chủ con sức khoẻ dồi dào, an khang, thịnh vượng.
Chúng con lễ bạc tâm thành, trước án kính lễ, cúi xin được phù hộ độ trì.
Nam mô a di Đà Phật!
Nam mô a di Đà Phật!
Nam mô a di Đà Phật!
 
VĂN KHẤN CÁC YẾT GIA TIÊN
Nam mô a di Đà Phật!
Nam mô a di Đà Phật!
Nam mô a di Đà Phật!
Kính lạy Tiên nội ngoại họ………………………
Hôm nay là ngày……… tháng.:……. năm……….
Gia đình chúng con mới dọn đến đây là: (địa chỉ):…………..
Chúng con thành tâm sắm lễ, quả cau lá trầu, hương hoa trà quả, thắp nén tâm hương dâng lên trước ban thờ Cụ nội ngoại gia tiên. Nhờ hồng phúc tổ tiên, ông bà cha mẹ, chúng con đã tạo lập được ngôi nhà mới. Nhân chọn được ngày lành tháng tốt, thiết lập án thờ, kê giường nhóm lứa, kính lễ khánh hạ.
Cúi xin các cụ, ông bà cùng chư vị Hương linh nội ngoại họ……………….. thương xót con cháu, chứng giám lòng thành, giáng phó linh sàng thụ hưởng lễ vật, phù hộ độ trì cho chúng con, lộc tài vượng tiến, gia đạo hưng long, cháu con được bình an mạnh khoẻ.
Chúng con lễ bạc tâm thành, trước án kính lễ, cúi xin được phù hộ độ trì.
Nam mô a di Đà Phật!
Nam mô a di Đà Phật!
Nam mô a di Đà Phật!

+ Đun nước, pha trà dâng Thần linh và Gia tiên (mục đích là để khai bếp).
* Sau khi hành lễ xong thì tiến hành dọn dẹp đồ đạc. Cuối cùng, khi đã dọn xong, gia chủ làm lễ hóa vàng. Từ đây, gia chủ có thể yên tâm ổn định làm ăn, tuần tiết mồng một ngày rằm đèn nhang thờ phụng cúng giỗ tổ tiên cầu an cầu phúc; hàng ngày hoà thuận tận tâm chu đáo trong mọi công việc, sống cư xử nghĩa tình trong gia đình cùng xóm ngõ theo phật dậy “Ở hiền gặp lành…”.